Cuộc Cách Mạng Tôm Ở Thái Lan

Năm 2001, ngành công nghiệp tôm của Thái Lan trải qua một biến đổi đáng kể khi chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng và trở thành nhà cung cấp Tôm Thẻ Chân Trắng hàng đầu thế giới.
Phát triển mạnh về tôm sú
Thái Lan bắt đầu nuôi tôm từ những năm 1970, sử dụng những con tôm sú bố mẹ đánh bắt từ biển để sản xuất giống trên đất liền cung cấp nguồn giống cho các ao nuôi. Đầu những năm 1990, Thái Lan đã nổi lên như một nhà sản xuất và xuất khẩu đứng đầu thế giới dựa vào sản xuất tôm sú.
Sự kết hợp của nhiều yếu tố cho phép Thái Lan phát triển ngành công nghiệp tôm có tổ chức tốt và đầy đủ hợp nhất. Tất cả những thành phần tạo nên thành công của ngành nuôi tôm bao gồm đại diện của công nghệ ở mọi cấp độ từ tôm giống, các trang trại nuôi, các công ty thức ăn và các nhà máy chế biến cũng như các công ty tiếp thị quốc tế.
Sự đa dạng của các doanh nghiệp kinh doanh và một số công ty đa quốc gia đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh hàng đầu cho sự đổi mới và tăng năng suất. Nguồn tài chính cho ngành công nghiệp này phần lớn từ các công ty thương mại lớn như Charoen Pokphan Food, Thai Union Frozen... Chính phủ hỗ trợ cho ngành công nghiệp này thông qua các chương trình nghiên cứu, phát triển mở rộng các chương trình nghiên cứu của Cục Thủy sản và các trường đại học.
Chuyển hướng đầu tư
Trong những năm 1990, vấn đề về bệnh dịch làm tăng các rủi ro và làm chậm sự mở rộng của ngành công nghiệp này. Bệnh đầu vàng và bệnh đốm trắng ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất. Chính phủ đã phải tài trợ nghiên cứu và mở rộng sự giúp đỡ, điều chỉnh và quản lý xung quanh khu vực có dịch bệnh.
Mặc dù gặp những vấn đề trên nhưng ngành công nghiệp nuôi tôm của Thái vẫn giữ vị trí số 1 trong sản xuất tôm với 280.000 tấn tôm sú (năm 2001). Tuy nhiên, cũng từ năm này, người nuôi tôm Thái Lan đối mặt với một căn bệnh mới được gọi là hội chứng chậm lớn ở tôm sú. Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được biết. Vấn đề chậm lớn ở tôm sú đặt ra giai đoạn đưa vào giới thiệu tôm giống chân trắng sạch bệnh (SPF). Những người nông dân thì tìm kiếm những nguồn ít rủi ro hơn, có thể mang lại kinh tế cho trang trại nuôi tôm.
Biểu đồ minh họa sự tăng nhanh sản xuất Tôm Thẻ Chân Trắng (màu vàng) từ năm 2002 - 2006 trong khi tôm sú (màu đỏ) sụt giảm nhanh chóng
Kiểm tra tôm bố mẹ sạch bệnh
Việc giới hạn nhập khẩu tôm bố mẹ sạch bệnh được thực hiện kiểm tra lần đầu tiên vào năm 2001. Kết quả rất ấn tượng và ổn định; tỷ lệ sống cao và sinh trưởng nhanh tới 20g trong vòng 100 ngày, kích cỡ đồng đều đến khi thu hoạch. Tôm sạch bệnh có sức chịu đựng mật độ cao - lên đến 2,5 kg/m2. Sản xuất Tôm Thẻ Chân Trắng năm 2002 của Thái Lan lên tới 20.000 tấn.
Những người nuôi tôm chuyên nghiệp của Thái Lan hiện nay sản xuất đạt từ 20-30 tấn/ha/vụ sử dụng tôm giống sạch bệnh và tôm giống kháng bệnh Taura. Những số liệu cho thấy động lực làm cho ngành công nghiệp tôm của Thái Lan chuyển từ nuôi tôm sú sang nuôi Tôm Thẻ Chân Trắng chính là giá trị kinh tế vượt trội của loài này. Giá trị lợi nhuận của Tôm Thẻ Chân Trắng lớn hơn tôm sú từ 2-3 lần. Khả năng kháng bệnh cũng cao hơn tôm sú.
Bảng1 : So sánh sự khác nhau về thông số sản xuất và lợi nhuận của tôm sú và Tôm Thẻ Chân Trắng tại Thái Lan
Yếu tố tạo thành công
Thái Lan là nước xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới nhờ công nghệ tiên tiến cho năng suất cao. Trong 6 tháng đầu năm 2011, xuất khẩu tôm của Thái Lan đạt 168.905 pound, trị giá 44,6 tỉ bạt (tương đương 1,5 tỉ USD). |
Một trong những yếu tố thành công với Tôm Thẻ Chân Trắng ở Thái Lan là kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu tôm bố mẹ để đảm bảo cung cấp đúng nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh. Luật pháp của Thái Lan yêu cầu, những nhà cung cấp tôm bố mẹ sạch bệnh phải có giấy chứng nhận với 2 năm kinh nghiệm và được nhà chức trách của Mỹ chứng nhận.
Xu hướng gần đây của ngành công nghiệp tôm Thái Lan là nuôi tôm với mật độ cao (200 con/m2). Cuộc cách mạng nuôi tôm của Thái Lan thu được lợi nhuận lớn từ việc thuần hóa và nuôi dưỡng tôm chân trắng sạch bệnh từ các công ty cung cấp của Mỹ.
Related news

Phát biểu tại một hội nghị vừa được tổ chức ở tỉnh Hàng Châu (Trung Quốc), Ren Zhengxiao, một quan chức cao cấp của Cơ quan quản lý ngũ cốc quốc gia, cho biết trong năm 2013, Trung Quốc có các kho dự trữ ngũ cốc với tổng sức chứa trên 300 triệu tấn.

Đến nay, trên địa bàn huyện Tiên Yên (Quảng Ninh) đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế nông trại, gia trại mang tính sản xuất hàng hoá ngày càng cao như: Mô hình nuôi ong lấy mật, nuôi vịt lấy trứng, gà Tiên Yên, ngan... Trong đó, khôi phục và phát triển việc nuôi ngan địa phương là một trong những mô hình tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân. Huyện Tiên Yên có diện tích mặt nước rộng, thích hợp cho phát triển chăn nuôi thuỷ cầm, thuỷ sản theo hướng chăn nuôi tập trung. Từ lâu, người dân trên địa bàn huyện đã tiến hành nuôi ngan địa phương (hay còn gọi là ngan Tiên Yên) khá hiệu quả. Ngan Tiên Yên có đặc điểm thân hình tròn, gọn, trọng lượng lúc 5 tháng tuổi đạt 2,5-3kg/con. Thịt ngan Tiên Yên thơm ngon và có hương vị đặc biệt. Ngan địa phương ở đây được nuôi theo hình thức chăn thả, thức ăn chủ yếu là những sản phẩm nông nghiệp sẵn có của địa phương. Ngan Tiên Yên có thịt ngon nên được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh ưa chuộng, nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều. Vì vậy, thời gian qua, ngan Ti

Theo THX, Vụ trưởng Vụ Ngoại thương thuộc Bộ Thương mại Thái Lan Duangporn Rodphayathi cho biết nước này đang tìm cách xuất khẩu hàng triệu tấn gạo sang Trung Quốc và một số nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong nửa cuối năm nay.

7 năm trước, gia đình ông Nông Văn Thắng ở Thuận Phú (Đồng Phú - Bình Phước) chặt bỏ 3 ha điều để trồng cao su. Hiện cao su của gia đình ông đang trong thời kỳ thu hoạch năm thứ 3. Ông Thắng cho biết: “Giá mủ năm nay thấp mà chi phí thuê nhân công vẫn cao (5-6 triệu đồng/người/tháng) nên gia đình tôi tự cạo.

Ông Nguyễn Văn Hùng, nông dân ấp Phú Thọ, xã Tân Phú, huyện Tam Bình (Vĩnh Long) nói: "Hiện có rất nhiều sản phẩm phân bón phun trên lá bày bán ngoài thị trường. Nông dân chúng tôi rất rối trí khi chọn mua phân bón để phun cho cây trồng. Điển hình là các sản phẩm siêu ra hoa, đậu trái, hạ phèn, ra rễ nhanh, to hạt, đẹp màu.