Cải Thiện Vị Thế Nông Sản Việt Tại Nga
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, Liên bang Nga vẫn là một thị trường “nặng ký” của các sản phẩm nông sản, thực phẩm của Việt Nam như: thủy sản, cà phê, hạt tiêu, chè, rau, quả, hạt điều, gạo… Với 143 triệu người tiêu dùng, trong đó tầng lớp trung lưu ngày càng phát triển, lẽ ra thị trường Nga có thể vẫn đứng đầu như những thập niên trước đây với hàng nông sản Việt Nam.
Nhưng hiện đang tồn tại một nghịch lý: Một thị trường truyền thống lớn như thế lại có xu hướng “teo tóp” dần với hàng nông sản Việt Nam. Số liệu do Cục Xuất nhập khẩu- Bộ Công Thương đưa ra tại tọa đàm mới đây cho thấy, tính riêng từ năm 2011 đến nay, kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản sang thị trường Nga chỉ chiếm từ 1,46- 1,64% tổng kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản của Việt Nam, thấp hơn nhiều so với các thị trường mới khác như Hàn Quốc (6,1%), Hoa Kỳ (23,6%), Nhật Bản (10,7%).
Theo các chuyên gia, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể kể đến như hàng nông sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với nhiều quốc gia khác tại thị trường Nga; nông sản Việt phải gánh cước vận tải quá cao do phải đi qua các cảng châu Âu rồi mới vòng lại Nga.
Các chuyên gia cũng lưu ý là liên quan đến vấn đề thuế, cho dù đã giảm so với thời gian trước khi Nga gia nhập WTO nhưng thuế nhập khẩu mà Nga đang áp với một số hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam vẫn còn tương đối cao. Một doanh nghiệp chè cho biết, chè đóng túi dưới 3kg bị áp thuế 40%, tương đương với mặt hàng gạo.
Mặc dù vậy, đại diện nhiều doanh nghiệp làm ăn với phía Nga nhìn nhận, Nga vẫn là một thị trường không thể bỏ qua bởi tính đa dạng về hàng thực phẩm và đồ uống mà doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể đáp ứng. Việc Nga gia nhập WTO cũng đã khiến nước này giảm thuế nhiều mặt hàng thấp hơn từ 30- 50%, đây là một lợi thế không thể không khai thác, nhất là trong bối cảnh Nga đang cấm nhập khẩu nông sản từ các nước EU.
Việc cải thiện vị thế của nông sản, thủy sản Việt Nam là việc cần phải được tiến hành thường xuyên từ góc độ các bộ, hiệp hội và cả doanh nghiệp.
Các chuyên gia cho rằng, bên cạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, các cơ quan hữu quan của Việt Nam cần làm việc với phía Nga để sớm chấp thuận danh sách các doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu sang Nga và sớm công nhận hệ thống quản lý chất lượng của Việt Nam như thông lệ quốc tế.
Một công việc nữa cần làm là có được cơ chế chuyển đổi linh hoạt giữa đồng rúp của Nga và đồng Việt Nam do chi phí mở L/C tại Nga rất đắt trong khi doanh nghiệp Nga ưa chọn phương thức trả chậm (đặt cọc 20- 30%, thanh toán hết sau khi nhận hàng).
Related news
Lào Cai sẽ cung ứng cho thị trường hơn 8.400 tấn thủy sản/năm vào năm 2020 Đó là định hướng quy hoạch phát triển thủy sản được triển khai trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2015 - 2020.
Chuyển động của ngành nuôi thủy sản Tiền Giang có lợi thế về điều kiện tự nhiên để phát triển nghề nuôi thủy - hải sản. Nhìn nhận thực tế từ những năm qua cho thấy, nghề nuôi trồng thủy sản đã có những giai đoạn phát triển rất "nóng", tập trung vào nuôi tôm công nghiệp, cá tra, cá bè hay nhuyễn thể.
Việt Nam tăng xuất khẩu cá tra sang Trung Quốc, Hồng Kông Tính đến ngày 27-6-2015, các doanh nghiệp trong cả nước đã ký được hợp đồng xuất khẩu 475.294 tấn cá tra các loại, trong đó Trung Quốc và Hồng Kông chính thức vượt Mỹ để trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, tính đến thời điểm này, theo báo cáo của Hiệp hội cá tra Việt Nam (VN Pangasius).
Hội nhập cho ngành chăn nuôi: Khó đứng vững trên sân nhà Hội nhập nền kinh tế thế giới vừa là cơ hội, nhưng cũng đầy thách thức với ngành chăn nuôi của mỗi quốc gia khi hàng rào thuế quan xóa bỏ, thuế xuất nhập khẩu các loại sản phẩm sẽ trở về “con số 0”.
Hiệu quả từ Câu lạc bộ chăn nuôi bò thâm canh ở Cam Tuyền Cam Tuyền là xã thuộc vùng gò đồi của huyện Cam Lộ (Quảng Trị), có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kinh tế chưa phát triển nên đời sống của người dân còn nhiều khó khăn. Trước đây, hầu hết người dân trong xã đều chăn nuôi bò theo lối chăn thả tự nhiên, tổng đàn bò khá lớn nhưng hiệu quả thu được không cao do lượng thức ăn tự nhiên không đáp ứng đủ nhu cầu (đàn bò mới được đáp ứng từ khoảng 50% đến 70% nhu cầu dinh dưỡng cần có); khả năng phát triển đồng cỏ hạn chế do không có đất dành riêng cho mục đích chăn nuôi.