Hội nhập cho ngành chăn nuôi: Khó đứng vững trên sân nhà

Chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ, không an toàn, cộng với chất lượng sản phẩm thấp… là điểm yếu của ngành chăn nuôi Thừa Thiên Huế nói riêng, cả nước nói chung sẽ rất khó cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu ngay tại “sân nhà”.
Phương thức chăn nuôi lạc hậu
Ông Trần Quang Phước, Trưởng phòng Chăn nuôi-Trồng trọt, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (PTNT) đánh giá, tồn tại lớn nhất của ngành là phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn còn phổ biến, số lượng, chất lượng sản phẩm thấp, khó đảm bảo an toàn dịch bệnh. Phần lớn các hộ do thiếu vốn, thiếu đất sản xuất, thiếu kỹ thuật nên chỉ nuôi chừng 5 - 10 con lợn, chủ yếu các giống truyền thống, như Cóc Vang, Móng Cái… có tỷ lệ nạc thấp, chất lượng sản phẩm không cao. Người dân còn e ngại nuôi các giống lợn ngoại, tỷ lệ nạc cao do chưa nắm vững khoa học, kỹ thuật tiên tiến… Đó chính là lý do mà tỷ lệ lợn “siêu nạc”, chất lượng cao trên địa bàn tỉnh hiện nay chỉ chiếm chưa đầy 42% trong tổng đàn bình quân trên dưới 200 ngàn con mỗi năm. Ngay cả việc nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò được đánh giá có sự chuyển biến khá nhanh, nhưng tỷ lệ bò lai sind (có trọng lượng, chất lượng thịt cao) cũng mới chỉ chiếm khoảng 40,5% tổng đàn.
Chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ, không an toàn
Phương thức chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ, chuyển đổi rất chậm cũng là một tồn tại. Ở các vùng nông thôn, tận dụng hệ thống vườn nhà, các ao hồ, sông đầm, hầu như nhà nào cũng chăn nuôi gia cầm, thủy cầm. Hầu hết các hộ chỉ nuôi vài chục con gà, vịt thả rông đều không tuân thủ quy định tiêm vắc xin phòng chống dịch bệnh và không triển khai các biện pháp an toàn sinh học nên thường xảy ra dịch bệnh. Trong tổng đàn hằng năm khoảng 2 triệu con gia cầm, chỉ có khoảng vài trăm trang trại nuôi ước chừng vài trăm ngàn con, còn lại đều chăn nuôi nhỏ lẻ. Với phương thức chăn nuôi truyền thống, chủ yếu sử dụng giống gia cầm địa phương nên sản phẩm đạt năng suất, chất lượng không cao. Trọng lượng mỗi con gà, vịt ở các nước, như Mỹ, Úc, Ấn Độ… thường cao gấp rưỡi, gấp đôi so với gia cầm trong nước. Đây cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định giá thành sản phẩm các nước thấp hơn nội địa.
Trang trại ít, hiệu quả thấp
Phương thức chăn nuôi theo mô hình trang trại (TT) an toàn được xác định là hướng đi phù hợp trong tiến trình hội nhập. Mấy năm gần đây, tỉnh quan tâm chính sách quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư kết cấu hạ tầng để phát triển chăn nuôi theo mô hình TT. Hầu hết các TT chăn nuôi đều tuân thủ theo mô hình khép kín, an toàn sinh học, sử dụng các giống lợn lai ngoại, tỷ lệ nạc cao và ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, tạo ra số lượng và chất lượng sản phẩm cao... Tuy nhiên số lượng TT chăn nuôi quy mô lớn trên địa bàn tỉnh hiện nay chỉ “đếm trên đầu ngón tay” và cũng đang gặp không ít khó khăn.
Từ khi mới lập trang trại ở vùng cát Quảng Lợi, ông Ái Hiệp quyết định chọn chăn nuôi lợn là chủ lực. Ngay từ lứa đầu tiên, ông nuôi 100 lợn nái và gần cả ngàn con lợn thịt. Trong 2 năm đầu, mỗi năm nuôi hai lứa cho doanh thu gần 6 tỷ đồng, lãi ròng hơn 1 tỷ... Ông Hiệp nói: “Mấy năm đầu có lãi, rất mừng, hy vọng chỉ vài năm sẽ trả xong nợ. Nhưng vì giá thức ăn, thuốc thú y ngày càng tăng cao, giá sản phẩm lại thấp, nếu cứ tiếp tục chăn nuôi sẽ thua lỗ nặng”. Theo tính toán của ông Hiệp, hiện nay nếu chăn nuôi với quy mô 1.000 con lợn thịt, 100 con lợn nái thì doanh thu trên 3 tỷ đồng, trong khi đó chỉ riêng chi phí thức ăn lên đến gần 3 tỷ đồng... Đến nay, ông Hiệp cũng như nhiều chủ TT vẫn còn nợ vốn vay ngân hàng.
Điều mà ông Ái Hiệp cũng như nhiều chủ TT trăn trở nữa, quá trình sản xuất, từ đầu tư kinh phí xây dựng chuồng trại đến quy trình kỹ thuật, đầu ra cho sản phẩm chủ yếu đều do các chủ hộ chăn nuôi “tự bơi”, chưa có sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan chức năng… Những rào cản trên khiến các chủ TT ít có lãi, thậm chí thua lỗ. Đó cũng chính là hạn chế làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm nội địa với các nước khác.
“Việc chuyển đổi tập quán sản xuất nhỏ lẻ sang nuôi tập trung chuyển biến rất chậm, ngoài thiếu đất, thiếu vốn còn do ý thức của người dân còn thấp. Bà con chủ yếu chăn nuôi mang tính tận dụng phụ phẩm trong gia đình để làm thức ăn, thiếu kiến thức, chưa mạnh dạn đầu tư công nghiệp. Người dân chưa chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi. Trong khi các trang trại hầu như không bị dịch, thì các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ lại thường xảy ra dịch bệnh cũng là lý do khiến người dân ngại nuôi…” (Ông Hồ Vang, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT nhận xét)
Related news

Đó là chị Nguyễn Thị Thanh Nga, sinh năm 1957, ở ấp Hoà Thịnh, xã Hoà Bình Thạnh, huyện Châu Thành (An Giang). Theo hướng dẫn của hai nữ cán bộ huyện Châu Thành, chúng tôi men theo con đường đất cặp mương Ngươn xẻ dọc cánh đồng Hoà Bình Thạnh đang độ làm đòng. Hơn 15 phút sau, chúng tôi dừng lại trước một trang trại mọc sừng sững giữa cánh đồng lúa xanh bát ngát.

Giảm dần khai thác thủy sản ven bờ, phát triển vùng khơi đang là hướng đi chung của bà con ngư dân Hà Tĩnh. Những năm gần đây, khát vọng vươn khơi, bám biển của ngư dân đang được tiếp sức, hỗ trợ mạnh mẽ để nghề đánh bắt thủy sản không chỉ giúp ngư dân làm giàu mà còn góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Đang vào cao điểm thu hoạch sầu riêng nhưng những chủ vườn, thương lái đến mua sầu riêng ở huyện Krông Năng, Krông Pắk (Đắk Lắk) phải khóc ròng trước nạn côn đồ đến tận vườn để ép giá, thu tiền bảo kê, xin đểu, quậy phá...

Là người năng động, ham học hỏi, nông dân Nguyễn Quốc Thắng đã sang Nhật học hỏi kinh nghiệm trồng rau sạch. Hiện rau hữu cơ từ trang trại rộng 7 ha của anh giá cao gấp 4- 5 lần rau thông thường nhưng thị trường luôn khát hàng.

Khi TPP được ký kết, các nước có nền nông nghiệp mạnh, nhất là trong chăn nuôi gia súc lớn như Mỹ, Úc có thể làm thay đổi cấu trúc thị trường chăn nuôi Việt Nam. Chăn nuôi nhỏ lẻ rất dễ bị các doanh nghiệp sản xuất bỏ rơi để quay sang nhập nguồn ngoại giá rẻ.