Bà Rịa Vũng Tàu lập lại trật tự nuôi trồng thủy sản trên sông Chà Và
Theo quy hoạch, sẽ có 414 lồng nuôi tôm hùm từ tiểu khu 4 về tiểu khu số 7. Trong ảnh: Thu hoạch tôm hùm tại hộ nuôi thủy sản do ông Hoàng Minh Thành làm chủ ở tiểu khu 4.
Sở NN-PTNN cho biết, hiện nay, tại khu vực nuôi trồng thủy sản lồng bè (NTTSLB) trên sông Chà Và có 193 hộ nuôi với 4.615 lồng. Trong đó, nhiều khu vực nuôi quá dày, ví dụ như tiểu khu 4 (76 hộ nuôi với 1.852 lồng, vượt 117,6% quy hoạch mặt nước) và tiểu khu 8 (50 hộ nuôi với 1.031 lồng, vượt 155%). Việc này đã làm giảm hiệu quả nuôi trồng thủy sản, đồng thời là một trong những nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm nguồn nước khi lượng thức ăn dư thừa tăng đột biến.
Để cải thiện tình hình trên, quy hoạch 1/2.000 yêu cầu các cơ sở NTTSLB phải nằm đúng luồng lạch giao thông, bảo đảm khoảng cách giữa các bè nuôi và nằm đúng tọa độ quy hoạch, bố trí lồng nuôi phù hợp, số lượng lồng nuôi tại mỗi tiểu khu có thể chênh lệch 10% so với quy hoạch.
Sơ đồ quy hoạch nuôi thủy sản lồng bè trên sông Chà Và, các số từ 1 đến 8 tương ứng với các tiểu khu quy hoạch.
Phương án bố trí sắp xếp và di dời dựa theo nguyên tắc ưu tiên những cơ sở NTTSLB đã được UBND tỉnh cấp giấy phép đầu tư (nhưng phải nằm đúng theo vị trí tọa độ đã được cấp phép); cơ sở nằm trong vùng quy hoạch và đúng đối tượng quy định. Bên cạnh đó, kiên quyết di dời qua khu vực khác những cơ sở NTTSLB lấn chiếm luồng lạch giao thông đường thủy; cơ sở NTTSLB không nằm trong tọa độ tại các tiểu khu nuôi theo quy hoạch; cơ sở nuôi những loại thủy sản không phù hợp theo quy hoạch. Đối với những cơ sở NTTSLB nằm ngoài khu quy hoạch, sẽ ưu tiên cơ sở có quy mô và vốn đầu tư lớn được phép di dời về.
Sở NN-PTNT cũng đã xây dựng dự thảo phương án bố trí sắp xếp và di dời các cơ sở NTTSLB vào khu quy hoạch. Trong đó, tiểu khu 1 nuôi các loại cá biển vẫn còn trống 183 lồng, có thể bố trí thêm 183 lồng từ tiểu khu 8 di dời qua. Tiểu khu 2 nuôi hàu đan và cá biển; còn dư 72 lồng nuôi hàu, phải di dời qua tiểu khu 5. Tiểu khu 3 nuôi hàu và cá biển; vượt 102 lồng, cần di dời số lượng lồng này qua tiểu khu 5. Tiểu khu 4 hiện nuôi nhiều cá bớp và tôm hùm, theo quy hoạch bố trí nuôi cá biển và hàu; vì vậy, phải di dời 35 lồng cá bớp về tiểu khu 5, 552 lồng cá bớp về tiểu khu 6 và 414 lồng tôm hùm về tiểu khu số 7.
Tiểu khu 5 hiện đang nuôi hàu, quy hoạch nuôi cá bớp, hàu, diện tích còn trống 71%, nên di dời 72 lồng từ tiểu khu số 2; 102 lồng từ tiểu khu số 3; 35 lồng từ tiểu khu số 4; 480 lồng từ tiểu khu số 8. Tiểu khu 6 và 7, trống 100% diện tích theo quy hoạch, có thể bố trí sắp xếp 966 lồng nuôi, nên bố trí sắp xếp được 552 lồng nuôi cá bớp từ tiểu khu 4; Tiểu khu số 7 theo quy hoạch chỉ bố trí nuôi tôm hùm, do đó sẽ ưu tiên để sắp xếp cho các cơ sở nuôi tôm hùm từ tiểu khu số 4 chuyển qua với 414 lồng. Tiểu khu 8 theo quy hoạch nuôi cá biển, vượt 663 lồng so với quy hoạch, bố trí di dời 183 lồng về tiểu khu số 1; 480 lồng về tiểu khu số 5.
Xung quanh phương án di dời, ông Dương Văn Hải, hộ NTTSLB ở tiểu khu 8, kiến nghị: “Tiểu khu 1 là khu vực gần cổng số 6, nơi này nhiều năm qua nguồn nước bị ô nhiễm do nước xả thải của các cơ sở chế biến hải sản chưa qua xử lý. Do vậy, việc di dời lồng bè từ tiểu khu 8 về tiểu khu 1 là khó thực hiện”. Về vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Trường, Trưởng phòng Kinh tế TP.Vũng Tàu giải thích thêm, hiện UBND tỉnh đã có dự án xử lý ô nhiễm nguồn nước khu chế biến hải sản xã Tân Hải, trong đó tập trung xử lý khu vực cổng số 6. Khi đó, NTTSLB ở tiểu khu 1 không đáng lo sợ.
Hiện các hộ nuôi thủy sản trên sông Chà Và tự phát là chính nên ảnh hưởng đến hành lang an toàn giao thông đường thủy, không mỹ quan, mật độ nuôi quá cao làm ảnh hưởng đến môi trường nuôi. Trong ảnh: Bè nuôi thủy sản trên sông Chà Và.
Ông Nguyễn Công Biên, hộ NTTSLB tiểu khu 3 cho rằng, việc tổ chức lại hoạt động NTTSLB là hết sức cần thiết và có lợi nhiều mặt cho người nuôi trồng cũng như việc khai thác nguồn lợi NTTSLB tại địa phương. Tuy nhiên, nên sớm thành lập các tổ tự quản để mỗi thành viên của tổ tự quản lý, giám sát lẫn nhau, góp ý kiến và hỗ trợ cho nhau trong quá trình nuôi và bảo vệ môi trường nuôi. Tuy nhiên, ông Biên cũng đề xuất: “Để công tác di dời thực hiện tốt, đúng tiến độ, đề nghị xem xét có chính sách hỗ trợ người nuôi trong quá trình di dời. Di dời nhanh cũng là giải pháp bảo đảm sự ổn định và sức khỏe các loại cá đang nuôi trong lồng bè”.
Để hạn chế sự xáo trộn, ông Trần Văn Cường, Phó Giám đốc Sở NN-PTNN cho biết, việc di dời sẽ cố gắng giữ nguyên hiện trạng để giảm thiệt hại cho người nuôi, tức là việc di chuyển ngắn nhất. Bố trí, sắp xếp lồng bè đúng khoảng cách và mật độ theo quy hoạch là giải pháp tốt nhất để lập lại trật tự ổn định và phát triển bền vững, góp phần giảm thiểu thiệt hại do ô nhiễm môi trường, dịch bệnh xảy ra trên động vật thủy sản nuôi lồng bè. Đồng thời, cần phải tiếp tục giải quyết một phần chỗ nuôi cho các bè nuôi trái phép trên địa bàn tỉnh vào khu quy hoạch để khai thác đúng tiềm năng NTTSLB trên sông Chà Và.
Related news
Vụ hè thu này huyện Thăng Bình gieo sạ được 7.250ha lúa. tuy nhiên 2 tuần gần đây trên cây lúa bắt đầu xuất hiện sâu cuốn lá nhỏ gây hại ở nhiều địa phương.
Ngày 22-8, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Ninh Sơn phối hợp với Trạm Bảo vệ thực vật tổng kết mô hình “1 phải, 5 giảm” trên cây lúa vụ hè- thu 2013.
Công tác tập huấn thường xuyên vẫn được chú trọng, đặc biệt là vào mùa vụ chính; tuy nhiên kết quả chưa đạt yêu cầu do không chiêu sinh được nông dân vì không có kinh phí hỗ trợ tiền ăn nên người dân không tham gia tập huấn, ảnh hưởng đến kết quả vùng nuôi tôm của tỉnh.
Để giúp các hộ nuôi từng bước chuyển dần hình thức nuôi tôm từ quảng canh cải tiến sang bán thâm canh theo hướng bền vững, năm 2013, Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh đã xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm trong ao đất có quạt nước theo hướng bền vững do anh Nguyễn Trọng Định làm chủ mô hình.
Qua 2 năm triển khai, Dự án nuôi cua mật độ cao (1 con/m2) của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III Nha Trang tại huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) đã và đang mang lại hiệu quả rất cao, sản lượng thu được từ 1,5 - 2 tấn/ha, góp phần cải thiện cuộc sống người dân.