Axit hữu cơ vi nang giúp nuôi tôm

Hỗn hợp mới giúp tăng năng suất và khả năng chống bệnh cầu trùng
Nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương là một ngành công nghiệp lớn ở châu Á nhưng thường xuyên phải đối mặt với các dịch bệnh, bao gồm cả nhiễm bệnh cầu trùng.
Sự bùng phát dịch bệnh trong ngành nuôi tôm đã gây thiệt hại kinh tế đáng kể trên toàn thế giới và đặc biệt mối đe dọa ngày càng tăng là “hội chứng tử vong sớm” (EMS) do plasmid trong vi khuẩn cầu trùng gây ra. Ngoài làm giảm khả năng miễn dịch, EMS hủy hoại đáng kể tế bào gan, dần dần gây tôm chết hàng loạt. Hơn nữa, do có một hạn chế lớn hoặc lệnh cấm sử dụng kháng sinh hoàn toàn nên người nuôi tôm ít có lựa chọn hơn để bảo vệ động vật chống lại các bệnh do vi khuẩn gây ra.
Axit hữu cơ trong thức ăn cho tôm
Các nhà nghiên cứu đã tìm ra các phụ gia thức ăn thân thiện với môi trường như thuốc phòng bệnh tiềm năng. Một giải pháp thay thế tiềm năng là các axit hữu cơ, hoặc GRAS được coi là "rất an toàn", đã được sử dụng thành công như chất kích thích tăng trưởng và kháng sinh trong ngành thức ăn chăn nuôi qua nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng đối với năng suất nuôi tôm chưa được biết đến nhiều.
Gần đây, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu đối chứng trong đó tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei) được cho ăn các chế độ hỗn hợp axit hữu cơ vi nang (OAB) khác nhau ở mức 0 (đối chứng), 1, 2 hoặc 4% và đánh giá hiệu suất tăng trưởng của chúng, hoạt động phenoloxidase (PO) và mô bệnh học gan sau 50 ngày. Hiệu quả sử dụng chất khô và photpho cũng được xác định. Vào cuối thử nghiệm cho ăn, tôm được thử thách với vi khuẩn gây bệnh cầu trùng và theo dõi tỷ lệ sống của chúng cùng với những thay đổi liên quan đến miễn dịch và bệnh lý gan tụy.
Axit hữu cơ vi nang
Các axit hữu cơ khác nhau được sàng lọc trước, riêng lẻ và kết hợp, cho các hoạt động đối kháng và hiệp đồng chống lại bệnh cầu trùng nhằm xây dựng một hỗn hợp tối ưu. Thí nghiệm hai tháng tiếp theo là nghiên cứu tôm thẻ chân trắng để giới hạn mức độ OAB thích hợp nhất trong khẩu phần ăn. Sau đó, OAB được đóng gói vào vi nang nhằm giảm thiểu chất cặn, điều này đặc biệt quan trọng đối với động vật giáp xác có nguồn cung cấp thức ăn tương đối chậm và phân nhỏ trong khi cho ăn.
OAB (OrgacidsTM-AQUA) được sản xuất và phát triển với Sunzen Feedtech Pte. Ltd (Malaysia), trong đó bốn axit hữu cơ (axit formic, lactic, malic và citric) được phủ một lớp lipid chuyên dụng sử dụng công nghệ làm mát ly tâm tốc độ cao nhằm sản xuất các viên nang nhỏ hơn 250 micron. Sản phẩm cuối cùng là bột mịn, không bị ăn mòn và có khả năng chống thấm nước của các axit hữu cơ hòa tan. Quan trọng hơn, công nghệ vi nang cho phép cung cấp các axit hữu cơ một cách từ từ theo toàn bộ chiều dài của ruột tôm để đạt hiệu quả tối ưu.
OAB được bổ sung vào chế độ ăn thực tế của tôm ở mức 0 (đối chứng), 1, 2 hoặc 4%. Bột đậu tương và dầu gan mực là nguồn protein và lipid chính
Một hình ảnh hiển vi điện tử của hỗn hợp axit hữu cơ vi nang được sản xuất bằng công nghệ phun mát ly tâm của Sunzen Feedtech Pte. Ltd. (Malaysia).
Thử nghiệm cho tôm ăn
Ba nhóm tôm tương ứng được cho ăn chế độ ăn thí nghiệm ba lần một ngày để nghiên cứu sự bão hòa ở hệ tuần hoàn khép kín trong 50 ngày và sau đó đo sự tăng trưởng, hoạt động PO và mô bệnh học gan. Trong một thí nghiệm riêng biệt, tôm được đo khả năng hấp thụ chất khô và phospho (P) và sau đó được thách thức với bệnh cầu trùng trong 10 ngày, tiếp theo là theo dõi sự sống, hoạt động PO và mô bệnh học gan tụy.
Sự tăng trưởng, tỷ lệ sống và sử dụng P được cải thiện trong tất cả các phương pháp điều trị OAB, với kết quả tốt nhất là 2% OAB (tăng trưởng và sử dụng P cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng), trong khi hoạt động PO không bị ảnh hưởng. Sự đề kháng của tôm đối với vi khuẩn V. harveyi (Hình 1) cũng như hoạt động PO được tăng cường đáng kể khi cho ăn chế độ OAB, và gan tụy ít tổn thương mô bệnh học hơn.
Hình 1: Tỷ lệ chết tích lũy (%) của tôm thẻ chân trắng sau khi được cho ăn hàm lượng OAB khác nhau và được thách thức với bệnh cầu trùng.
Hiệu quả axit hữu cơ ở tôm
Hiệu quả của phụ gia thức ăn OAB được thử nghiệm như một chất kích thích tăng trưởng nhờ khả năng sử dụng chất dinh dưỡng tối ưu, hỗ trợ các tế bào hấp thu lipid trong gan tụy. Đặc biệt, việc sử dụng P được tăng cường đáng kể, điều này có thể làm giảm lượng P thải ra quá mức và có hại đến môi trường thủy sinh xung quanh. Trong khi đó, mặc dù lượng thức ăn tiêu thụ không được đo trực tiếp, nhưng chế độ ăn của tôm được bổ sung axit hữu cơ cho thấy tôm hoạt động mạnh hơn. Một số axit hữu cơ như propionate và butirat, gần đây đã được báo cáo hoạt động như chất hấp dẫn thức ăn cho tôm thẻ chân trắng, mặc dù chúng không có trong công thức OAB được thử nghiệm.
Nghiên cứu này đã chứng minh sự tăng cường miễn dịch và khả năng bảo vệ gan tụy của axit hữu cơ. Tôm được cho ăn khẩu phần OAB có hoạt động PO cao hơn đáng kể và ít tổn thương gan tụy hơn, điều này có thể giải thích sự sống của tôm cao hơn trong thử thách V. harveyi. Cầu trùng gây chết tôm bằng cách giảm khả năng miễn dịch và gây tổn thương gan tụy.
Triển vọng
Việc sử dụng nguyên mẫu OAB được đánh giá trong nghiên cứu này hoặc các axit hữu cơ khác hoặc muối của chúng kết hợp hoặc đơn lẻ, có thể là một phụ gia thức ăn đặc biệt có lợi cho ngành nuôi tôm biển. Các thử nghiệm cho ăn tiếp theo hiện đang được tiến hành trên trang trại để xác nhận thêm các tác động có lợi của axit hữu cơ trong thức ăn cho tôm.
Ghi chú của tác giả: Để có báo cáo đầy đủ về nghiên cứu này, vui lòng tham khảo, “Romano, N., Koh, C.B., Ng, W.K. 2015. Hỗn hợp axit hữu cơ vi nang theo chế độ ăn giúp tăng cường sự tăng trưởng, sử dụng phốtpho, đáp ứng miễn dịch, tính toàn vẹn gan và chống lại cầu trùng harveyi trong tôm thẻ chân trắng, Litopenaeus vannamei. Nuôi trồng thủy sản 435, 228-236. ”
Related news

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) kết hợp công nghệ xử lý bổ sung ngoài được sử dụng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tái chế nước cục bộ (PRAS), cho phép tái sử dụng 1 số lượng nước đáng kể. Hệ thống RAS này đạt mức độ kiểm soát tốt hơn bất kỳ ứng dụng công nghệ nào khác trong nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu quả sản xuất cao và lợi ích kinh tế đáng kể.

Hệ thống PRAS áp dụng kĩ thuật xử lý nước, cho phép một phần nước trong ao thủy sản được tái chế và đưa trở lại vào ao. Đối với các cơ sở nuôi trồng thủy sản phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước, các vấn đề về tính bền vững, hay có nhu cầu muốn tăng cường sự kiểm soát các điều kiện trong ao, công nghệ tái chế nước này này chính là bước tiến hóa về công nghệ trong hệ thống nuôi trồng thủy sản hiện đại.

Mặc dù hệ thống nuôi trồng thủy sản sử dụng nước chảy qua chủ yếu được xây dựng cùng với hệ thống mương rạch, ngày càng nhiều cơ sở đang dần chuyển đổi để sử dụng ao nuôi tuần hoàn để mang lại hiệu quả sử dụng nước cao hơn, hiệu quả pha trộn cao, loại bỏ các chất thải rắn hiệu quả, làm gia tăng mật độ cá trong ao.

Phương pháp sản xuất độc quyền này giảm thiểu chi phí lao động, hoàn toàn thân thiện với môi trường và cho ra sản phẩm tôm ngon, chất lượng cao trong một môi trường mật độ cao đáp ứng nhu cầu thương mại ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Tính toàn diện, tính linh hoạt và độ tin cậy của hệ thống kiểm soát của chúng tôi khiến chúng tôi trở thành công ty đi đầu về công nghệ trong ngành công nghiệp sản xuất tôm.

Trong lịch sử, những nỗ lực để nuôi tôm trong 1 hệ thống khép kín với mật độ cao ở mức độ thương mại thường đem về hai kết quả: thành công một cách khiêm tốn hoặc thất bại hoàn toàn thông qua "Công nghệ BioFloc". Các tác nhân gây bệnh như ký sinh trùng, vi khuẩn và virus là nguy hiểm và khó kiểm soát nhất.