Việt Nam sẽ xuất khẩu được thêm 4 triệu tấn gạo

Chính vì thế, nhu cầu nhập khẩu gạo trong khối này luôn tăng trong 10 năm qua.
Các số liệu thống kê của FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc) cho thấy, 10 năm trước sản lượng gạo nhập khẩu của 11 quốc gia trong khối TPP (trừ VN) là 3,1 triệu tấn.
Đến năm 2014, con số này đã tăng lên là 4,7 triệu tấn, chiếm 11,7% trong tổng khối lượng gạo nhập khẩu của thế giới và gần bằng ¾ tổng khối lượng gạo xuất khẩu của VN.
Như vậy, trong điều kiện nhập khẩu với nhiều ưu đãi hơn so với bên ngoài khối TPP thì đây rõ ràng là cơ hội vàng cho gạo VN “ghi điểm”, gia tăng lượng gạo xuất khẩu vào khối này.
Bởi hiện nay VN chỉ mới xuất khẩu có 760.000 tấn vào khối này trong năm 2014, trong khi nhu cầu tới 4,7 triệu tấn, tức vẫn còn tiềm năng gần 4 triệu tấn cho gạo VN.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cảnh báo, mặc dù đây là cơ hội vàng nhưng với cung cách sản xuất hiện nay của ngành nông nghiệp thì VN vẫn sẽ khó nắm bắt được được cơ hội này.
“Bởi gạo của VN hiện nay vẫn chưa có thương hiệu, không thuần loại, không truy xuất được nguồn gốc và đặc biệt không kiểm soát được dư lượng hóa chất” – TS Nguyễn Đình Bích, chuyên gia ngành lúa gạo, chỉ ra nguyên nhân.
Theo ông Hà Công Tuấn - Thứ trưởng Bộ NNPTNT, Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo VN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 tập trung vào việc tăng quy mô sản xuất lớn cho nông dân, hướng tới sản xuất bền vững, sản xuất sạch, nâng cao chất lượng hạt gạo nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và tiến tới xây dựng thương hiệu cho lúa gạo VN.
Bên cạnh các mục tiêu cải cách của Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo, TS Nguyễn Đình Bích cũng chỉ ra những thị trường “ngách” nhỏ mà doanh nghiệp có thể tận dụng để “ghi bàn”.
Đó chính là thị trường các loại gạo chức năng, gạo hữu cơ, gạo thảo dược… “Gạo hữu cơ xuất khẩu qua Mỹ của một doanh nghiệp ở Bạc Liêu đang có giá tới 800 USD/tấn, cao gấp 2 lần gạo thường hiện nay, mà việc sản xuất loại gạo này đang rất có triển vọng” – TS Bích cho biết.
Related news

Nhiều năm qua, vụ lúa trên đất nuôi tôm bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn… làm cho năng suất “giậm chân tại chỗ”. Khoảng thời gian 14 năm chuyển dịch tại Cà Mau cũng là thời gian nông dân thực hiện mô hình lúa - tôm băn khoăn về năng suất của cả con tôm và cây lúa.

Trong tự nhiên chạch bùn sống đáy, ở khu vực nước nông của sông, ao, hồ, kênh mương, ưa nước sạch; không thích hợp với môi trường bùn đáy ô nhiễm nhiều mùn bã hữu cơ.

Do nhu cầu sản phẩm tôm sống trên thị trường khá cao nên các nhà nghiên cứu từ đại học công nghệ Virginnia, Mỹ đã nghiên cứu phương pháp vận chuyển loài thủy sản này ở trong điều kiện ít nước hơn.

Theo kinh nghiệm của nhiều hộ nuôi cá rô phi luân canh với tôm nước lợ cho biết, quy trình này thành công cao nhất khi tận dụng nước nuôi cá rô phi để nuôi tôm thì bà con nên nuôi ở mật độ dưới 50 con/ 1 mét vuông. Với mật độ này sẽ tiết kiệm được gần 20% chi phí đầu vào và tỉ lệ thành công sẽ cao hơn.

Môi trường ao nuôi, vùng nuôi tôm nước lợ ngày càng xuống cấp, chủ yếu là việc sử dụng thuốc, hóa chất, thức ăn, đặc biệt là xu thế nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng sẽ làm tăng lượng thuốc, hóa chất gấp 3 lần so với tôm sú.