Vai Trò Ao Lắng Trong Nuôi Tôm

Theo quy trình kỹ thuật cho loại hình nuôi tôm công nghiệp (NTCN) thì ao lắng nước là một phần diện tích bắt buộc phải có trước khi thực hiện mô hình này. Song, hiện nay ao lắng không được người nuôi quan tâm, thiết kế. Đây là điều mà các ngành chức năng lo lắng cho sự thành công của vụ nuôi, nhất là trong mùa khô.
Trước tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi ngày càng phức tạp, biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng môi trường nước, diện tích NTCN phát triển ồ ạt nhưng không theo quy trình, quy hoạch... đòi hỏi việc sản xuất phải theo khuyến cáo của ngành chuyên môn.
Theo quy trình kỹ thuật NTCN thì diện tích của ao lắng chiếm từ 20-30% trong tổng diện tích ao nuôi. Với diện tích này thì đa số hộ nuôi tôm không đáp ứng được do diện tích đất hẹp, ao nuôi ít, phần lớn các diện tích mới cải tạo thành ao NTCN từ ao nuôi cá bống tượng, cá chình và vườn tạp. Một phần người nuôi tôm chưa hiểu hết tầm quan trọng của ao lắng nên chưa quan tâm đúng mức.
Ao lắng đóng vai trò quan trọng giúp vụ nuôi thắng lợi.
Nhất là trong thời tiết khắc nghiệt như hiện nay, tình hình nắng nóng làm nước bốc hơi nhanh, độ mặn tăng cao, môi trường ao nuôi ngày càng diễn biến phức tạp... thì ao lắng sẽ quyết định thành công của vụ nuôi rất cao bởi nó đáp ứng được yêu cầu như cấp nước cho ao nuôi.
Do đó, người nuôi tôm cần tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi tôm là phải có một phần diện tích cho ao lắng để bảo đảm cho vụ nuôi thành công.
Ông Châu Công Bằng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, cho rằng, nếu trong ao lắng nuôi cá phi thì lượng mùn bã hữu cơ là nơi chứa các vi khuẩn gây bệnh được cá phi ăn làm cho môi trường nước trong ao lắng tốt hơn. Qua đó, góp phần cho vụ nuôi thành công hơn.
Ao lắng còn là nơi lắng lọc các chất kim loại nặng do các nhà máy chế biến thuỷ sản, thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, nhất là khi mưa trái mùa xuất hiện, triều cường dâng. Đặc biệt, đối với sự lây lan mạnh của mầm bệnh thì ao lắng là công cụ đắc lực giải quyết cơ bản những mối nguy hại trên.
Do đó, Sở NN&PTNT đã yêu cầu các địa phương cần tuyên truyền sâu rộng trong Nhân dân, đặc biệt những hộ nuôi tôm ngoài quy hoạch cần tuân thủ đúng kỹ thuật là phải có ao lắng, có ao nuôi và ao xả thải.
Không nên sử dụng ao lắng vào mục đích khác mà chỉ được thả cá nuôi như: cá phi, cá đối, cá măng mà không được thả tôm, cua. Có như vậy mới cắt được sự lây lan của mầm bệnh.
Related news

Dẫn chúng tôi ra thăm mô hình ở tại đồi núi Mang He, xã Sơn Bua, ông Trần Quí - Trưởng trạm Khuyến nông huyện Sơn Tây cho biết: Đến thời điểm này, con giống đã được thả gần 1 tháng. Tuy còn quá sớm và phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác để nói đến việc thành, bại, nhưng qua kết quả khảo sát, đánh giá sơ bộ ban đầu và thực tế nuôi, tôi tin rằng sẽ mô hình này sẽ thành công.

Cách đây hai năm, cũng như các khu vực nuôi tôm khác trong tỉnh, nghề nuôi tôm công nghiệp tại xã Hoà Thắng (tỉnh Bình Thuận) gặp rất nhiều khó khăn, nhiều chủ cở sở nuôi đã bỏ đìa không còn thiết tha với nghề, thế nhưng trong năm 2013 nuôi tôm công nghiệp có dấu hiệu phục hồi trở lại khi quy trình sản xuất cũ được thay đổi bằng quy trình nuôi mới an toàn, đạt chất lượng, hiệu quả cao.

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Hồng Thắng – Chủ tịch Hội Nông dân (ND) xã Hải Toàn cho biết: Tháng 1.2014 Hội ND xã Hải Toàn phối hợp với Công ty cổ phần Dược phẩm Traphaco thành lập Tổ hợp tác trồng và chế biến cây dược liệu (đinh lăng) Hải Toàn. Theo đó, phía công ty sẽ chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ công nghệ sấy lò hơi và cam kết thu mua toàn bộ sản phẩm với giá cao hơn 10% giá thị trường.

Nuôi hươu lấy nhung đang là mô hình khá mới ở tỉnh Gia Lai. Được triển khai từ đầu năm 2013 tại huyện Chư Pah (thuộc dự án ứng dụng khoa học công nghệ cấp huyện), đến nay, mô hình này đã bước đầu cho thấy những hiệu quả nhất định, tạo sự phấn khởi nơi người chăn nuôi.

Được thành lập năm 2001, Hợp tác xã (HTX) chè Lương Sơn (huyện Yên Lập) có 237 xã viên. Sau nhiều năm củng cố, đổi mới phương thức hoạt động, đến nay mô hình kinh tế tập thể của HTX Lương Sơn đã phát huy thế mạnh trong việc liên kết và là điểm tựa vững chắc cho các hộ gia đình xã viên phát triển sản xuất - kinh doanh chè.