Sản Xuất Cá Măng Giống
Cá măng nuôi trong ao nước lợ hay đìa ven biển mất 5 năm để đến chu kì sinh sản. Ở môi trường nước lợ, chế độ ăn uống để phát triển tuyến sinh dụng với hàm lượng thức ăn giàu protein từ 36%- 38% và có những lồng chuyển giao nước biển giữa lồng nuôi trên biển và bể nuôi trên đất liền. Đối với bể nuôi đất liền, hệ thống nước được chảy liên tục với tỉ lệ trao đổi 200% trên ngày.
Dùng một mũi kim nhỏ dùng để lấy mẫu vật liệu sinh dục để xác định con đực và con cái thông qua các lỗ sinh dục. Dầu đinh hương hoặc thuốc gây mê MS222(hay cũng gọi là Tricaine-S) để gây mê cá khi tiến hành xác đinh giới tính hoặc chuyển đàn. Cá nuôi vẫn được phép sinh sản tự nhiên dẫu cho người nuôi vẫn có thể can thiệp bằng cách tiêm hóc môn. Trứng cá măng được thu thập bằng cách dùng những tấm lưới mắc nhỏ.
Nuôi ấu trùng và sản xuất cá bột
Ấu trùng cá măng được nuôi trong các bể trong nhà hoặc ngoài trời làm bằng bê tông hoặc sợi thủy tinh đầy nước biển mặn (nồng độ trên 30 phần nghìn). Trùng bánh xe được nuôi trước bằng cách sử dụng nanoflagellate Nannochloropsis để làm thức ăn có sẵn cho ấu trùng cá măng khi chúng bắt đầu ăn được. Trứng sẽ được nở trong những bể nuôi và những ấu trùng được ngày tuổi sẽ được chuyển sang bể nuôi ấu trùng với mật độ 30 con trên 1 lít nước.
Việc cho ăn bắt đầu khi lòng đỏ của trứng cá được 36 giờ từ lúc sinh. Thức ăn sống bổ sung là loại ấu trùng Artemia và chế độ ăn ấu trùng nhân tạo vào ngày thứ 12. Tỉ lệ nước nuôi ấu trùng cá măng được thay đổi từ 10% trên ngày trong thời gian từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 10 và tăng lên 50% vào ngày thứ 11 đến ngày thứ 15 rồi đến 75% vào ngày thứ 16 đến ngày thứ 29 và 100% từ ngày thứ 21 cho đến khi thu hoạch. Cá bột sẽ được bán vào ngày thứ 21.
Source: Milkfish Production and Processing Technologies in the Philippines
This project was funded by the Department of Agriculture - Bureau of Agricultural Research (BAR) and was made possible through the generous support and collaboration with the Southeast Asian Fisheries Development Center (SEAFDEC), the Bureau of Fisheries and Aquatic Resources (BFAR) and the University of the Philippines in the Visayas (UPV)
Tác giả: Wilfredo G. Yap, Antonio C. Villaluz, Ma. Gracia G. Soriano, and Mary Nia Santos
Related news
Cá măng được nuôi chung với tôm,cua đen, cá dià, cá mú, cá rô phi, rong biển, động vật thân mềm và nhiều loại cá khác hoặc lứa cá nhỏ hoặc lứa trung. Nhưng nuôi ghép cá măng với tôm hoặc cua là phổ biến và có lợi nhuận cao nhất.
Nuôi cá măng thâm canh yêu cầu ao nuôi thương phẩm với diện tích nhỏ hơn (0,1-1 héc ta) nhưng sâu hơn (từ 1-2 mét), vốn đầu tư và vốn lưu động lớn cũng như trình độ kĩ thuật cao. Hình thức nuôi này cho thu từ 2 đến 3 vụ cá trên năm và sản lượng cá đạt 12 tấn trên ha nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro cao.
Bè cá bao gồm 1 lưới hàng rào bao bên ngoài với 7 nút lưới và 1 lưới bao bên trong với mắt lưới nhỏ hơn (17 nút). Kích thước của bè cá dao động từ 1 ha đến tối đa là 50 ha(tối đa cho phép ở Vịnh Laguna. Ở những hồ nhiều sinh vật phù du thì cá măng chủ yếu ăn sinh vật phù du và các loại cỏ dưới đáy ao.
Các bè cá ở vùng ven biển thường thì kích thước sẽ nhỏ hơn (500-1.600m2). Phụ thuộc vào độ sâu và dòng nước thì mật độ thả cá giống dao động từ 6 đến 12 con trên 1 m2. Chế độ ăn đối với cá thương phẩm từ 3-4 lần mỗi ngày chứa 27-31% đạm bắt đầu từ lúc thả giống đến khi thu hoạch. Kích thước cá đến ngày thu hoạch đạt 250-275g trong vòng 4-5 tháng với tỉ lệ sống sót từ 80-90% và năng suất ngưỡng 1.5-5kg/m2.
Bảo quản bằng cách xử lí để có thể để lâu như là ướp muối, xông khói, phơi khô. Những cách truyền thống vốn dĩ vẫn dùng để bảo quản cá măng là phơi khô, xông khói và lên men. Muốn phơi khô trước tiên phải tách cá làm 2 như hình con bướm sau đó ngâm vào nước muối trước khi đem phơi dưới nắng. thời gian phơi khô từ 10 giờ đến 32 giờ phụ thuộc vào kích thước của cá đạt để độ ẩm đạt 20%.