Nan Giải Khống Chế Dịch Bệnh Tôm

Con tôm là một trong những đối tượng nuôi chủ lực của ngành thủy sản, với diện tích và sản lượng lớn nhất. Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, dịch bệnh trên tôm đã khiến nhiều người nuôi điêu đứng. Nguyên nhân đã được công bố, nhưng khả năng khống chế đến đâu lại vẫn bỏ ngỏ.
Mờ mịt nguyên nhân
Tại hội nghị sơ kết nuôi tôm nước lợ 6 tháng đầu năm và triển khai kế hoạch 6 tháng cuối năm do Tổng cục Thủy sản tổ chức cuối tháng 7 vừa qua, nhiều ý kiến cho rằng ngân sách cho công tác phòng chống dịch bệnh trong ngành thủy sản quá ít là một nguyên nhân chính khiến việc khống chế dịch bệnh trở nên khó khăn.
Tỉnh Sóc Trăng là địa phương trọng điểm nuôi tôm cả nước, với hơn 50.000 ha, nhưng kinh phí chỉ được gần 280 triệu đồng; 42 tỉnh, thành phố không có kế hoạch phòng, chống dịch bệnh thủy sản; 8 tỉnh, thành phố có kế hoạch phòng chống dịch bệnh nhưng không được bố trí kinh phí.
Tuy nhiên, một số lại khẳng định, ngân sách hạn hẹp chỉ là một phần, bởi dịch bệnh bùng phát mạnh còn do thời tiết, sự thành khẩn và hợp tác của các cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp cùng người nuôi.
Nhưng nhiều ý kiến đồng tình nhất vẫn là tại… thời tiết. Theo nhận định chung, những tháng đầu năm 2014, thời tiết biến động và không thuận lợi, đầu năm nắng nóng bất thường ở các tỉnh ĐBSCL, do đó dịch bệnh tôm xảy ra và bùng phát ở nhiều vùng. Chủ yếu vẫn là các bệnh đốm trắng, đầu vàng, hoại tử gan tụy, đốm đen, đỏ thân...
Lòng vòng trách nhiệm
Dù đã được cảnh báo và tăng cường kiểm soát nhưng dịch bệnh trên tôm nuôi vẫn xảy ra và diễn biến phức tạp, công tác phòng chống dịch bệnh vẫn còn nhiều bất cập. Trách nhiệm này phải quy vào đâu?
Trước tiên tại người nuôi? Tổng cục Thủy sản cho rằng hầu hết các tỉnh đều có quy hoạch nuôi trồng thủy sản nhưng thực tế nhiều nơi người dân đã tự ý chuyển đổi diện tích nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản, do đầu tư chưa thỏa đáng về hạ tầng (điện, hệ thống cấp thoát nước) nên thường gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, việc tuân thủ kỹ thuật trong nuôi và ý thức phòng chống dịch bệnh của người dân còn hạn chế… đã và đang làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh.
Nhưng một nhận định chung được nhiều người đồng tình, đó là do quy trình công nghệ nuôi tôm mỗi vùng một kiểu. Cùng đó, việc các sản phẩm chế phẩm sinh học, xử lý cải tạo môi trường được sử dụng tràn lan; thức ăn, giống kém chất lượng chưa được loại bỏ khiến dịch bệnh không thể kiểm soát mà còn bùng phát nhanh hơn. Chưa kể, không mấy người nuôi chủ động đưa tôm giống đi xét nghiệm trước khi thả nuôi…
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng nếu cơ quan quản lý nhà nước mạnh tay hơn nữa thì mọi chuyện sẽ khác. Trước tiên, về vấn đề con giống, yếu tố quan trọng là phải làm tốt khâu kiểm dịch, nhưng việc này hiện nay còn nhiều bất cập.
Lực lượng chuyên ngành chưa “phủ” tới từng địa phương đồng nghĩa với khả năng con giống chưa kiểm dịch đã bán ra thị trường rất lớn. Mặt khác, đối với giống tôm sú và tôm thẻ chân trắng bố mẹ thì hiện nay cơ sở chỉ đăng ký kinh doanh, bởi không có quy định đăng ký chất lượng.
Giải pháp
Tại Thái Lan, khi xảy ra dịch, người ta đã xử lý rất triệt để, từ khâu khoanh vùng dịch, vệ sinh ao nuôi đến kiểm soát chất lượng tôm giống và tôm bố mẹ, nên đã hạn chế được tình trạng dịch bệnh tôm nuôi lây lan. Nhưng ở nước ta, các khâu này thực hiện còn lỏng lẻo.
Sau nhiều cuộc hội thảo, nhiều ý kiến đồng tình rằng phải có sự phối hợp và gắn kết chặt chẽ giữa các “nhà”, nhưng trước tiên các cấp ngành chức năng phải mạnh tay hơn nữa. Các địa phương cần tăng cường công tác quản lý vật tư đầu vào như thuốc, hóa chất, sản phẩm sinh học, nhất là với các sản phẩm lâu nay vẫn sử dụng.
Bởi theo ý kiến đại biểu đến từ tỉnh Ninh Thuận trong hội thảo sơ kết tôm vừa qua thì lâu nay việc tiêu độc khử trùng thường dùng Chlorine, nhưng đây là phương án lợi bất cập hại, vì sát khuẩn nhưng lại ảnh hưởng đến môi trường vùng nuôi, làm trơ nền đất và độc với thủy sản.
Còn theo Cục Thú y, cùng với việc kiểm dịch con giống, cần có chương trình quản lý và giám sát dịch bệnh từng vùng nuôi, nhằm kịp thời phát hiện dịch bệnh, nhất là việc cảnh báo người nuôi về xu hướng bệnh có thể phát sinh ở từng thời điểm để phát hiện và phòng trị sớm nhất. Hơn nữa, phải có chế tài xử lý thật nghiêm minh với những trường hợp người nuôi “phá” luật.
Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Phạm Anh Tuấn, cho rằng cốt yếu là kiểm soát chất lượng đầu vào như con giống, các sản phẩm sử dụng trong quá trình nuôi. Người nuôi cũng cần thay đổi thói quen nuôi trồng, tuyệt đối không lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời dành diện tích nuôi nhất định để xử lý nguồn nước...
Related news

90% số hộ chăn nuôi ở Đồng Nai hiện đang nuôi gia công cho các DN nước ngoài, trong đó lớn nhất là C.P”, L., chủ một trại chăn nuôi ở Đồng Nai bộc bạch. Anh L. trước đây cũng từng làm chủ DN nhưng thị trường chăn nuôi quá bấp bênh, đầu ra không ổn định nên cuối cùng phải chấp nhận nuôi gia công cho C.P, lợi nhuận thấp hơn nhưng “thu nhập ổn định”.

Ông Hồ Quốc Nguyên - Giám đốc truyền thông Big C Việt Nam - cho biết, từ đầu năm tới nay, giá xăng giảm nhiều lần nhưng trên thực tế mỗi lần chỉ giảm ở mức vài trăm đồng nên các nhà cung cấp không điều chỉnh giá tương ứng. Tuy nhiên, lần giảm giá ngày 7/11 nhiều hơn nên siêu thị sẽ có công văn đề nghị nhà cung cấp xem xét lại mức giá hàng hóa hợp lý.

Tham dự hội nghị có PSG – TS Trần Đình Thiên, Viện Trưởng Viện kinh tế Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Hiếu, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ Trần Phi Hổ. Về phía tỉnh Đồng Tháp - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Châu Hồng Phúc đến dự.

Đội bảo vệ BQLCB huyện Gò Công Đông hiện có 17 người tham gia, gồm 5 chòi canh, 6 phương tiện thủy với nhiệm vụ bảo vệ trên 2.000ha diện tích cồn bãi. Trong đó, BQLCB huyện nuôi 350ha thuộc cù lao cồn Ông Mão, phần còn lại do người dân ven biển nuôi.

Các hộ tham gia đánh giá, mô hình giải quyết được việc ô nhiễm môi trường và mùi hôi thối do chất thải trong chăn nuôi gây ra, giúp đàn vật nuôi khỏe mạnh, tăng trọng nhanh, giảm đáng kể số lượng điều trị thuốc thú y, hạn chế được rủi ro do dịch bệnh lây lan, tạo ra sản phẩm an toàn, tăng lợi nhuận cho người nuôi khoảng 20% so với cách nuôi truyền thống.