Nam Bộ Phát Triển Mạnh Mô Hình Cánh Đồng Mẫu Lớn

Theo Cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, mô hình cánh đồng mẫu lớn đang phát triển mạnh ở khu vực Nam Bộ, đặc biệt là vùng ĐBSCL với những nông dân thuần thục trong ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa.
Vụ Đông Xuân 2012 - 2013, khu vực Nam Bộ có 21 tỉnh, thành đăng ký tham gia mô hình cánh đồng mẫu lớn với tổng diện tích hơn 76.500 ha, tăng 50.000 ha so với mức thực hiện của vụ hè thu 2012.
Việc mở rộng diện tích cánh đồng mẫu lớn dựa trên đánh giá hiệu quả kinh tế trong mô hình này ở một số địa phương trong các vụ lúa 2011 - 2012 cho thấy, riêng tại Nam Bộ lợi nhuận thu được từ mô hình này cao hơn so với ngoài mô hình từ 2,2 - 7,5 triệu đồng/ha nhờ việc áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật làm tăng năng suất, đồng thời giảm chi phí sản xuất như lượng giống sạ, số lần phun thuốc trừ sâu bệnh. Giá thành sản xuất lúa theo cánh đồng mẫu lớn thấp hơn từ 120 - 600 đồng/kg so với ngoài mô hình.
Mô hình cánh đồng mẫu lớn bắt đầu ở vụ hè thu 2011 bắt đầu triển khai trên diện rộng với tổng diện tích đạt gần 8.000 ha; trong đó, An Giang là tỉnh có diện tích lớn nhất là 3.857 ha. Bến Tre là tỉnh có diện tích thấp nhất là 47 ha. Sang vụ đông xuân 2011 - 2012, diện tích cánh đồng mẫu lớn đạt gần 20.000 ha với 12/13 tỉnh ở ĐBSCL tham gia; vụ hè thu 2012 là 26.000 ha, tăng hơn 3 lần so với vụ hè thu 2011.
Theo kế hoạch của Cục Trồng trọt, vụ đông xuân 2013 - 2014, các tỉnh phía Nam sẽ có khoảng 200.000 ha tham gia mô hình cánh đồng mẫu lớn. Tại các tỉnh Nam Bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn định hướng xây dựng mô hình “cánh đồng mẫu lớn” là tiến tới hình thành vùng nguyên liệu lúa hàng hóa, xuất khẩu 1.000.000 ha và xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.
Để việc tiêu thụ lúa gạo tại các “Cánh đồng mẫu lớn” ở ĐBSCL trong thời gian tới được ổn định, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đề nghị các Công ty thành viên của Hiệp hội Lương thực làm đầu mối liên kết nông dân ký hợp đồng đầu tư "đầu vào" và thu mua lúa trong mô hình “Cánh đồng mẫu lớn"; từng bước xây dựng vùng nguyên liệu sản xuất lúa gạo của mỗi doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sẽ cung ứng vật tư đầu vào như giống lúa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, đầu tư hệ thống sấy, kho chứa, xay xát để bao tiêu lúa cho dân theo hợp đồng bằng cách trực tiếp tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu.
Bộ cũng đề nghị các địa phương tổ chức thêm nhiều loại hình tiêu thụ lúa khác như: hợp tác xã, tổ hợp tác hoặc nhóm nông dân đứng ra làm dịch vụ thu mua, tập hợp lúa trong mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” như là một thương lái và bán cho doanh nghiệp xuất khẩu…
Related news

Đó là chia sẻ của TS Lưu Bích Hồ - Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) khi nhận định về những khó khăn, thách thức mà ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ phải đối mặt khi gia nhập các hiệp định thương mại tự do trong thời gian tới.

Trong bối cảnh hội nhập, việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và xây dựng thương hiệu nông sản đang trở nên cấp thiết.

Việc siêu thị từ chối hàng nông sản tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cũng như sản phẩm khu vực này khó cạnh tranh trên thị trường đang làm cho người nông dân gặp nhiều khó khăn. Các chuyên gia cho rằng nên “phá bỏ để làm mới” lĩnh vực sản xuất nông sản thì mới hy vọng tình hình chuyển biến tốt hơn.

Nếu không có biện pháp ứng phó thích hợp với biến đổi khí hậu, trong tương lai không xa, có không ít doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng thu hẹp sản xuất, thậm chí bị phá sản vì thiếu nguyên liệu phục vụ sản xuất.

Nhiều chuyên gia cho rằng trong vòng 20 năm nữa, Việt Nam vẫn phải đứng trên “đôi chân nông nghiệp”. Điều này báo chí đã phân tích nhiều, có lẽ không cần bàn cãi. Bài viết này ghi nhận ý kiến của các chuyên gia liên quan đến câu chuyện thay đổi tư duy làm nông nghiệp của Việt Nam. Đáng chú ý, bà Meirav Eilon Shahar, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Israel tại Việt Nam, khẳng định: nông nghiệp chính là tương lai.