Mỗi Năm Mất 8.000 Tỷ Đồng Do Thiếu Trang Bị Ở Tàu Cá

Theo các chuyên gia thủy sản, tỉ lệ thất thoát trong khai thác thủy sản hiện nay xảy ra ở nhiều khâu, nhưng chủ yếu là do khâu bảo quản trên tàu cá còn quá yếu.
Ở TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đội tàu đã phát triển lên gần 1.500 chiếc nhưng ướp cá chủ yếu bằng đá có nilon, két nhựa hay làm hầm cách nhiệt bằng các vật liệu thô sơ như gỗ, xốp... Cách làm như vậy tạo ra những vi sinh vật có hại cho chất lượng cá. Biết vậy nhưng ngư dân lại không thể nâng cấp được tàu do vướng mắc về vốn, khi mà 70% tàu cá hoạt động được là nhờ vốn ngân hàng.
Ông Nguyễn Xuân Thanh, Chủ tịch Hội nghề cá tỉnh Kiên Giang cho biết thêm: “Một chiếc tàu giờ đóng cũng phải một vài tỷ. Khả năng vốn đối ứng thì chỉ khoảng 70% thôi còn đâu người ta phải đi vay. Những người thất bại nhiều chuyến thì nguồn vay của họ bắt đầu khó khăn.”
Việt Nam hiện có gần 130 nghìn tàu cá các loại. Một nửa trong số đó có công suất dưới 20 mã lực, do đó, điều kiện bảo quản, mặt bằng phân loại sản phẩm trên tàu rất hạn chế. Phương thức bảo quản trên tàu hiện nay chủ yếu là sử dụng đá lạnh. Nhưng phương pháp này chỉ có hiệu quả tốt nhất trong 7 ngày, trong khi mỗi chuyến biển ở vùng biển Tây Nam thường kéo dài tới 20 ngày. Điều đó khiến tỉ lệ cá bị hỏng lớn, dẫn tới giảm giá bán, thậm chí bị đổ bỏ.
Ông Nguyễn Việt Thắng – Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam giải thích thêm: “Tôi nói ví dụ như con cá ngừ vây xanh. Các nước họ đánh bắt xong bảo quản ở trình độ đông sâu ngay, sau đó đấu giá ở chợ quốc tế có thể bán được với giá trăm đô. Còn chúng ta… vẫn phải mổ ruột, ướp đá, đông sâu cũng là trong hầm đá thôi. Như vậy là chưa đạt trình độ đấu giá với chợ quốc tế, nên chỉ bán được 10 đô, 5 đô, 7 đô. Có nghĩa là tôi nói không chỉ tổn thất 20 – 30% đâu mà nó có thể lên tới 60 – 70%.”Ngành thủy sản chịu tổn thất lớn sau thu hoạch do vấn đề bảo quản - Ảnh minh họa
Nhằm giữ được giá trị cao của hải sản sau đánh bắt, trong điều kiện thiếu phương tiện bảo quản hiện đại, nhiều ngư dân đã sử dụng các hóa chất cấm, như hàn the, urê. Theo ông Dương Ngọc Minh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, không chỉ gây độc hại cho sản phẩm, cách làm này của ngư dân còn làm tăng thêm một số chi phí, ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm khi bán ra thị trường, có thể tới 10-15% giá trị xuất khẩu.
Hạn chế về phương tiện đánh bắt đã tạo ra thất thoát lớn cho ngành hải sản. 8.000 tỷ đồng/ năm, đó chỉ là về sự thất thoát lượng hóa được, riêng của một năm. Làm một phép so sánh khác, thì con số đó xấp xỉ bằng tổng thu ngân sách của cả tỉnh Kiên Giang trong 5 năm trở lại đây.
Related news

Anh Nhi cho biết: “Sau khi đi tham quan tận mắt mô hình của người dân trong huyện và thấy được hiệu quả của loài vật nuôi này nên tôi quyết định mua về 6 con chồn bố mẹ, với nguồn vốn ban đầu gần 20 triệu đồng. Thời điểm đó, mỗi ký chồn bố mẹ có giá 950.000 đồng”.

Điển hình như trang trại của gia đình ông Nông Văn Phùng ở thôn Doãn Văn gồm hơn 10 ha với đủ loại cây trồng đang đem lại hiệu quả kinh tế khá cao. Theo như lời ông kể thì trước đây toàn bộ diện tích này, gia đình ông chỉ trồng cà phê, điều, cao su, nhưng năng suất còn thấp.

Phú Thọ là tỉnh có diện tích chè đứng thứ 4 trong cả nước với tổng diện tích hơn 16,1 ngàn ha, năng suất chè bình quân đạt 9,4 – 9,8 tấn/ha/năm, sản lượng chè búp tươi năm 2014 ước đạt xấp xỉ 143 ngàn tấn. Toàn tỉnh có 56 công ty, xí nghiệp chế biến chè xanh, chè đen với công suất trên 1 tấn búp tươi/ngày; 1.200 cơ sở chế biến thủ công; 9 làng nghề chế biến chè. Sản phẩm chè của tỉnh hiện đã có mặt ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Theo báo cáo của Phòng NN-PTNT huyện Tuy Phước (Bình Định), vụ 1.2014 toàn huyện thả nuôi tôm trên diện tích hơn 962/972 ha, trong đó có 90 ha nuôi thâm canh, bán thâm canh thả giống tôm thẻ chân trắng (TTCT), diện tích còn lại nuôi theo phương thức quảng canh cải tiến, nuôi tôm ghép với các đối tượng thủy sản khác.

Nếu như các năm trước, vào tháng 6, đến Bàu Nghè, nhiều người không muốn về bởi cảnh sắc vùng sen này níu giữ, thì năm nay, trên đồng sen không một bóng người, hồ nào cũng chỉ lơ thơ một ít cọng sen còn nguyên lá, đủ để người ta nhận ra đó là nơi trồng sen. Lội cả cánh đồng sen cũng chỉ tìm được vài bông.