Kỹ Thuật Trồng Khoai Sọ (Khoai Từ) Đồi
Chọn giống:
Có 2 loại: giống dọc trắng và giống dọc tía. Giống dọc trắng có chiều cao cây, trọng lượng củ trung bình trên khóm và năng suất củ cao hơn.
Khi trồng nên chọn giống dọc trắng, chọn các củ con trên củ cái khoẻ mạnh, không bị sâu bệnh, tròn đều, trọng lượng khoảng 50g. Không lấy củ đã mọc mầm dài và các củ cháu để làm giống (củ cháu là củ mọc từ củ con). Trước khi trồng phơi nắng củ giống 2-3 ngày để thúc nẩy mầm.
Thời vụ trồng:
Trồng vào tháng giêng và tháng 2 âm lịch, tốt nhất là trồng vào thời điểm xung quanh tiết lập xuân để sau khi trồng gặp mưa xuân cây mọc thuận lợi.
Làm đất:
- Đất được cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ. Đào hố có kích thước 20 x 20 x 20 cm.
- Tuỳ theo điều kiện khí hậu, đất đai từng nơi, có thể trồng theo khoảng cách, mật độ như sau: khoảng cách 70 x 80 cm, mật độ 20.400 cây/ha; 80 x 80 cm, mật độ15.600 cây/ha; 90 x 90 cm, mật độ 12.300 cây/ha.
Bón phân:
Bón lót phân hữu cơ 8-10 tấn/ha; trung bình khoảng 0,5-0,8 kg/hốc. Bón thúc phân đạm, lân, ka li. Lượng phân bón cho 1 sào Bắc Bộ: 4-7 tạ phân chuồng; 2-3 kg urê; 10-12 kg phân lân nung chảy; 2 - 4 kg sunphát kali. Bón lót toàn bộ phân chuồng và phân lân, 1/2 đạm và kali trộn đều vào đất trước khi trồng. Phần đạm và kali còn lại có thể bón thúc 1-2 lần sau khi trồng 3-6 tháng.
Trồng:
Đặt củ giống ở độ sâu 7 - 8 cm, tránh tiếp xúc trực tiếp với phân, phủ kín đất. Sau khi trồng, phủ bằng rơm rạ hoặc cỏ khô để giữ ẩm cho đất và hạn chế cỏ dại.
Chăm sóc:
+ Tưới nước: khoai sọ đồi ưa ẩm, nhưng úng nước bộ rễ phát triển kém. Sau khi trồng nhiệt độ không khí chưa cao, cây chưa lớn, chỉ giữ cho đất ẩm (độ ẩm đất 65 - 75%) là được. Thời kỳ hình thành củ, cây sinh trưởng và phát triển mạnh, cần nhiều nước. Do đó phải chú ý tưới nước, tránh để cây gặp hạn trong giai đoạn này.
+ Vun luống (đối với đất bằng phẳng): sau khi trồng 2 - 3 tháng, cây mọc khoẻ, vun luống cao 15 - 20 cm, rộng 40-50 cm để rễ bất định mọc nhiều, tăng khả năng chống hạn cho cây, hạn chế mầm ngọn nảy sinh, tạo điều kiện cho cây mẹ phát triển. Đối với đất dốc thì tiến hành vun gốc.
+ Phòng trừ sâu bệnh: đề phòng một số loại sâu bệnh: rầy, nhện đỏ, bệnh cháy lá, thối củ; trong đó bệnh mốc sương thường phát sinh vào thời kỳ nhiệt độ cao và ẩm độ lớn.
Thu hoạch:
+ Khi lá chuyển sang màu vàng và khô dần là lúc củ đã già, hàm lượng tinh bột cao, hương vị củ thơm ngon, có thể thu hoạch củ. Vụ thu hoạch chính vào trung tuần tháng 9.
+ Nếu củ dùng làm giống thì phải để thật già mới thu hoạch.
+ Sau khi thu hoạch, củ không cần rửa và đem để nơi khô mát.
Lưu ý:
- Thời gian sinh trưởng của khoai sọ núi tương đối dài (khoảng 8 tháng). Do đó, để nâng cao thu nhập trên 1 đơn vị diện tích nên trồng xen với lạc, đậu tương hoặc một số loại rau ăn lá.
- Đối với vùng đồng bằng đất thấp, khi trồng khoai sọ cần tiến hành lên luống.
Related news
Bệnh ghẻ khoai lang (sphaceloma batatas) đang trở thành đối tượng gây bệnh chính, phân bố ở hầu hết những vùng trồng khoai, làm ảnh hưởng đến năng suất củ.
Giống khoai tây KT2 do Trung tâm Nghiên cứu cây có củ - Viện Cây lương thực - cây thực phẩm chọn tạo. Qua SX diện rộng tại tỉnh Hà Nam, chúng tôi có một số kinh nghiệm thâm canh giới thiệu để bạn đọc tham khảo:
Khoai tây là cây rau ăn củ, sự hình thành củ rất sớm, cây khoai mọc cao 20cm đã hình thành tia củ, tia củ được phát triển chủ yếu từ các rễ mọc ra ở gốc mầm đoạn 2cm cách củ giống.
Khác với kỹ thuật trồng khoai tây theo phương pháp truyền thống từ trước đến nay là làm đất, bón phân lót, lên luống, trồng, chăm sóc, vun gốc v.v… vụ đông 2009 vừa qua KS. Nguyễn Hữu Khương, cán bộ kỹ thuật công ty TNHH An Phú Nông đã trồng thử nghiệm thành công 2 mẫu khoai tây trên chân đất 2 vụ lúa bằng biện pháp kỹ thuật mới, kỹ thuật trồng không cần làm đất có che phủ rơm rạ cho năng suất cao, chất lượng khoai thương phẩm tốt mà chi phí sản xuất lại giảm nhiều.
Bệnh héo xanh hay còn gọi là héo rũ do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây nên. Đây là bệnh nguy hiểm và phổ biến ở các nước có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, trong đó có nước ta. Bệnh làm cây chết đột ngột và thối củ, lây lan nhanh, thường làm giảm năng suất rất nhiều, thậm chí mất trắng.