Home / Rau củ quả / Khoai ngọt (Khoai mỡ)

Tưới Nước Cho Khoai Tây Vụ Đông

Tưới Nước Cho Khoai Tây Vụ Đông
Publish date: Wednesday. July 31st, 2013

Khoai tây là cây trồng ưa lạnh, nhiệt độ thích hợp cho khoai tây sinh trưởng phát triển từ 16-18 độ C. Thời vụ trồng khoai tây tập trung từ giữa tháng 10 đến đầu tháng 11 và thu hoạch từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 2 năm sau. Thời gian cây khoai tây sinh trưởng, phát triển mạnh đúng vào các tháng khô hạn nhất trong năm. Cho nên việc tưới nước cho khoai không những có tác dụng giữ ẩm mà còn làm tăng hiệu quả của phân bón , góp phần tăng năng suất cây trồng.

Trong quá trình sinh trưởng phát triển của khoai tây có 4 thời kỳ có nhu cầu về nước khác nhau: Thời kỳ mọc và cây con, thời kỳ hình thành tia củ, thời kỳ củ phình to và thời kỳ từ khi củ đã trưởng thành đến khi thu hoạch. Trong sản xuất thì phải tính đến hiệu quả kinh tế cho nên tưới nước lúc nào, tưới bao nhiêu lần, tưới nhẹ hay tưới đẫm không chỉ dựa vào nhu cầu nước của cây trong từng giai đoạn khác nhau mà cần phải dựa vào độ ẩm của đất, tình hình thời tiết, khí hậu…để có quyết định chính xác.

Khoai tây ở thời kỳ trồng, cây mới mọc còn nhỏ thì cây dựa 1 phần vào lượng nước còn trong củ và độ ẩm của đất, đến khi cây phân cành, đâm tia thì lượng nước trong đất vẫn còn khá cao, lúc này mới là cuối mùa mưa, có nhiều năm vẫn còn những trận mưa lớn.

Giai đoạn cây có nụ kéo dài cho đến khi thân lá ngừng phát triển là lúc yêu cầu về nước rất cao để giúp cho cây phát triển thân lá, tia củ phình to, đồng thời lúc này ứng với tháng 12 ít mưa nên rất cần tưới nước, đất cần có độ ẩm bằng hoặc trên 80%, nếu độ ẩm đất thấp sẽ ảnh hưởng xấu đến năng suất.

Sang giai đoạn từ khi cây ngừng phát triển thân lá đến thu hoạch thì nhu cầu nước lại giảm, nhưng lại đúng vào tháng 1 trời hanh khô ít mưa nên cũng rất cần tưới nước để giúp cho quá trình tích luỹ và vận chuyển các chất hữu cơ về củ.

Trong sản xuất khoai tây, để đảm bảo được độ ẩm cần thiết thường sau khi cây mọc được khoảng 15 đến 20 ngày, nếu thấy đất thiếu ẩm là tiến hành tưới lần thứ nhất, sau đó khoảng 15-18 ngày lại tưới tiếp lần thứ 2, tưới khoảng 3-4 lần như vậy.

Cách tưới tốt nhất là tưới theo rãnh (kể cả hàng đơn và hàng kép). Cho nước vào rãnh ngập 1/2 đến 2/3 chiều cao luống trong vài giờ (tuỳ theo yêu cầu tưới nhẹ hay tưới đẫm) rồi tháo kiệt. Đối với chân ruộng để làm giống cho vụ sau cũng nên tưới ít hơn để quá trình bảo quản đỡ hao hụt, ít bị bệnh…Sau khi tưới xong có thể xới phá váng kết hợp với bón thúc cho khoai


Related news

Kỹ Thuật Trồng Khoai Tây Hiệu Quả Kỹ Thuật Trồng Khoai Tây Hiệu Quả

Khoai tây có thể trồng nguyên cả củ hoặc trồng bằng miếng bổ, nhiều nơi bà con nông dân trồng khoai tây bằng miếng bổ để tiết kiệm củ giống, giảm chi phí đầu tư ban đầu.

Saturday. January 15th, 2011
Mô Hình Luân Canh Cây Khoai Mỡ Mô Hình Luân Canh Cây Khoai Mỡ

Trồng lúa vụ Đông Xuân, sau đó xuống khoai mỡ, hoặc lúa Đông Xuân – khoai mỡ - tranh thủ vụ củ cải trắng là cơ cấu cây trồng được nông dân các ấp: Long Hòa 2, Long Hòa 1 và Long Phước của xã Long Mỹ, huyện Mang Thít xây dựng thực hiện hàng năm trên đất lúa

Saturday. February 19th, 2011
Kỹ Thuật Trồng Khoai Môn Kỹ Thuật Trồng Khoai Môn

Khoai môn có bộ rễ ăn nông, thích hợp đất có thành phần cơ giới nhẹ như đất cát pha, đất thịt nhẹ ở ven sông. Đất phải được cày, bừa kỹ, san bằng phẳng mặt để tránh bị đọng nước. Lên liếp đôi để trồng 2 hàng, liếp rộng 1,8- 2 m, xẻ mương giữa rộng khoảng 0,2 m

Saturday. January 15th, 2011
Dùng Khoai Từ Chữa Bệnh Dùng Khoai Từ Chữa Bệnh

Để dùng khoai từ làm thức ăn an toàn hơn (không bị đầy) đã có kinh nghiệm nướng khoai từ (qua nhiệt chất nhựa của khoai bị phân hủy). Ăn ít thì nướng chín, nếu dùng nấu các món thì nướng qua rồi mới nấu.

Saturday. January 15th, 2011
Vĩnh Long: Đưa Khoai Mỡ Xuống Ruộng Vĩnh Long: Đưa Khoai Mỡ Xuống Ruộng

Trồng lúa vụ Đông Xuân, sau đó xuống khoai mỡ, hoặc lúa Đông Xuân – khoai mỡ - tranh thủ vụ củ cải trắng là cơ cấu cây trồng được nông dân ở xã Long Mỹ, huyện Mang Thít, Vĩnh Long thực hiện nhiều năm nay trên đất ruộng.

Saturday. January 15th, 2011