Kỹ Thuật Nuôi Cua Đồng Trên Ruộng
Cua đồng thuộc lớp giáp xác, bộ 10 chân. Ở nước ta cua đồng thường gặp ở vực nước ngọt: ao, hồ, ruộng, sông, suối, nước lợ nhạt vùng đồng bằng, trung du và miền núi.
Cua đào hang ven bờ ruộng, ao, mương… Hang cua khác với hang của rắn, ếch… bằng vết chân để lại trên ruộng. Cua cái có 4 đôi chân bụng, cua đực có 2 đôi chân bụng biến thành chân giao cấu. Trước đây, sản lượng cua đồng tại Việt Nam lên đến hàng vạn tấn, song do kỹ thuật canh tác mới, xây dưng thủy lợi, sử dụng thuốc trừ sâu… đã làm giảm nguồn lợi cua đồng ở nhiều địa phương.
Một số hộ dân ở Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc đã thu gom cua giống tự nhiên để thả nuôi trong ruộng lúa. Sau khoảng 6 - 8 tháng nuôi có thể tiến hành thu hoạch. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhà nghiên cứu khoa học nào tổng kết kỹ thuật nuôi cua đồng tại Việt nam. Vì vậy, bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi cua đồng trong ruộng lúa thường được người dân TQ áp dụng...
1. Chuẩn bị ruộng nuôi- Chọn ruộng nuôi: địa thế ruộng bằng phẳng, giữ nước tốt, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận lợi, chất nước không bị ô nhiễm, chất đất là loại đất thịt.
- Diện tích mỗi ruộng từ 1/3 ha đến 2/3 ha là vừa, nhỏ quá chất nước không ổn định, lớn quá khó quản lý.
- Đào mương nuôi tạm ở góc ruộng hoặc ở ria ruộng, rộng 4 - 6 m, sâu 1 - 1,5 m, diện tích khoảng 3 - 5% diện tích ruộng.
- Đào mương bao quanh và mương giữa. Mương bao quanh chân bờ về phí trong 1m, sâu 0,8 - 1,0m, rộng 3 - 5m. Nếu ruộng rộng, đào thêm ở giữa ruộng hình chữ “thập” rộng 1 - 1,5m, sâu 0,5 - 0,8m. Tổng diện tích cả 3 loại mương chiếm khoảng 15 - 20% diện tích đất ruộng.
- Lấy đất đào mương để đắp bờ ruộng cho cao và to ra. Chú ý nện đất chặt để nước bị rò rỉ. Các cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng săm hoặc lưới thích hợp, nền cống phải đầm chặt.
- Đặt lưới chắn xung quanh ruộng. Nếu lưới bằng nilon mỏng thì phải đóng cọc cao hơn mặt bờ 40 - 50cm, lấy dây thép buộc nối các đầu cọc với nhau, gấp đôi tấm nilon lên dây thép cho rủ xuống đất thành 2 lớp rồi vùi sâu trong đất bờ từ 15 - 20cm. Nếu chắn bằng tấm nhựa hoặc fibroximăng… thì chỉ cần vùi xuống đất 15 - 20 cm, đầu trên cao hơn mặt đất ít nhất là 40cm, bốn góc lượn hình cung.
- Dùng vôi sống hàm lượng 75 - 105 kg/1.000m2 hoà nước té đều khắp mương.
- Trồng các loại cỏ nước phủ kín đáy mương và thả các loại cây nổi như bèo tấm, rau dừa nước, bèo cái…khoảng 1/3 mặt nước.
2. Thả giống
- Thời gian thả giống cua là từ khoảng tháng 2 đến tháng 4 hàng năm.
- Con giống yêu cầu khoẻ mạnh, không thương tật.
- Mật độ: nếu cỡ giống là 100 -150 con/kg thì mật độ thả là 750con/1.000m2; hoặc nếu cỡ giống là 300 - 600 con/g thì thả 1800 con/1.000m2.
- Cần thả giống vào mương nuôi tạm trước khi cấy lúa để kéo dài thời gian sinh trưởng của cua. Lúc cấy xong đợi đến thời kỳ lúa con gái thì tăng nước lên ruộng lúa để cua lên ruộng ăn.
3. Cho ăn- Thức ăn: Cua là động vật ăn tạp thiên về thức ăn động vật. Chúng thích ăn thịt các loại nhuyễn thể như trai, ốc, hến, cá tạp. Nếu thiếu thức ăn chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau, nhất là cua mới lột vỏ. Thức ăn nuôi cua thường được khai thác tại chỗ. Trước khi thả giống, nên bón phân lót ở ven mương với lượng 300 - 450 kg/1.000m2 để động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua con. Từ tháng thứ 4 nên thả ốc giống vào ruộng (450 - 600kg/1.000m2 hoặc thả tôm ôm trứng để sinh sản thành tôm con làm thức ăn cho cua cỡ lớn hơn. Ngoài ra có thể dùng các loại thức ăn đã chế biến dạng hạt vừa có dinh dưỡng cao. Nếu có điều kiện thì tận dụng cá tạp và phế thải động vật để giảm giá thành.
- Cho ăn: Căn cứ vào mùa vụ, nhiệt độ nước và giai đoạn sinh trưởng của cua để cho ăn hợp lý.
+ Từ tháng 3 đến tháng 5, cua chủ yếu ăn thức ăn tinh. Thức ăn nên làm thành các nắm bột nhão nhỏ. Lượng thức ăn từ 20 - 30% trọng lượng cua.
+ Từ tháng 6 đến tháng 9, cua ăn khoẻ, mau lớn nên cần cho ăn thêm rong cỏ, khoai sắn, bổ sung thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế từ cá tạp.+ Từ tháng 10 trở đi, cần tăng thêm thức ăn từ động vật. Lượng thức ăn từ 7 - 10% trọng lượng cua.
+ Mỗi ngày cho cua ăn 2 lần, buổi sáng sớm và chiều tối. sáng cho ăn từ 20 - 40%, chiều cho ăn chính là 60 - 80% tổng lượng thức ăn hàng ngày.+ Cần đặt sàng ăn tại 1 số điểm trong mương để kiểm tra lượng thức ăn của cua. Căn cứ vào thưòi tiết, nhiệt độ, tình hình ăn mồi của cua để điều tiết lượng thức ăn hàng ngày.
4. Chăm sóc
- Nước trong ruộng luôn phải dảm bảo sâu từ 5 - 10 cm. Nước quá béo thì phải thay nước. Từ tháng 6 đến tháng 9, cứ 2 ngày thay nước 1 lần, từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 10 trở đi mỗi tuần thay nước 1 lần. Mỗi lần thay từ ¼ - 1/3 lượng nước ruộng
- Định kỳ bón vôi để bổ sung lượng vôi trong nước, thường từ 15 - 20 ngày/lần, lượng vôi sống 22kg/1.000m2.
- Chú ý điều chỉnh lượng cỏ nước ở mật độ nhất định. Định kỳ kiểm tra mương để phát hiện địch hại gây bệnh, dọn dẹp thức ăn thừa, xác cua chết, đảm bảo nước trong sạch.
5. Thu hoạchThời điểm thu hoạch chủ yếu là vào tháng 10. Tuy nhiên nên thu tỉa cua lớn trước, giữ cua nhỏ lại nuôi tiếp.
Related news
Giai đoạn này chỉ nên ương nuôi cua trong ao đất. Cua bột có hình thái giống cua trưởng thành. Cua thích sống ở đáy, (chất đáy cát pha bùn), hoặc bám vào các thực vật thủy sinh, cua bột có thể sống được ở nước độ mặn 15‰ và thấp hơn, ăn các động vật nhỏ và thức ăn chế biến, rong, tảo.
Nuôi cua con thành cua thịt có thể thực hiện trong ao đầm riêng biệt hay nuôi kết hợp trong đầm nuôi tôm nước lợ, nuôi trên ruộng lúa với hình dạng và kích cỡ khác nhau. Ao nuôi nên có từ 300-1.000m2, độ sâu 0,8-1,2m với bờ có chiều rộng đáy 3m, mặt 1-1,5m và cao 1-1,5m (bờ cao hơn mức triều cường ít nhất 0,5m). Xung quanh bờ phải rào bằng đăng tre, tấm nhựa, lưới cước.
Trại sản xuất cua giống nên xây dựng ở gần biển, có nguồn nước biển tốt, ở vùng đầm phá, rừng ngập mặn ven biển có nhiều cua sinh sống, gần vùng nuôi cua, có điều kiện giao thông thuận lợi, có nguồn điện lưới quốc gia, an ninh tốt.
Ở một số tỉnh ven biển phía Nam, bà con thường phát triển hình thức nuôi cua lột. Đây là hình thức nuôi cua thương phẩm cho giá trị kinh tế cao. Xin giới thiệu cách nuôi cua lột.
Cua xanh (Scylla spp) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, được nuôi ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, là nguồn cung cấp thực phẩm tươi sống và là nguồn thu nhập quan trọng của cộng đồng cư dân ven biển. Ở nước ta, người dân một số địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An đã nuôi cua xanh từ rất lâu