Kiện toàn quản lý, khai thác thủy lợi
Hạn chế bởi cơ chế quản lý
Bắt tay vào thực hiện chính sách cấp bù thủy lợi phí, năm 2008, tỉnh Tuyên Quang có 150 BQL công trình thủy lợi (2 BQL liên huyện, 5 ban liên xã và 143 ban cấp xã).
Hệ thống trên được phân cấp tổ chức quản lý dàn trải trên 2.700 công trình phục vụ tưới cho hơn 36.000 ha lúa 2 vụ.
Trong điều kiện trình độ, năng lực của cán bộ các BQL công trình thủy lợi còn hạn chế, đa số chưa qua đào tạo đúng chuyên môn nghiệp vụ, lại không có một tổ chức làm đầu mối chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn nên các BQL hoạt động mỗi nơi một phách.
Thực tế trên đã khiến một số BQL công trình thủy lợi hoạt động lỏng lẻo, việc điều hòa phân phối nước không kịp thời, không đảm bảo mùa vụ.
Một số nơi, BQL lại để người dân tự lo bơm, dẫn nước làm phát sinh tình trạng tranh chấp, gây lãng phí nước.
Nhiều BQL thực hiện việc điều tiết, vận hành hồ chứa chưa đúng quy trình kỹ thuật. Tương tự như quản lý công trình thủy lợi, nguồn kinh phí cấp bù thủy lợi phí cũng bị sử dụng văng mạng.
Kế hoạch sử dụng kinh phí cấp bù thủy lợi phí triển khai đã chậm lại thiếu chính xác nên phải điều chỉnh nhiều lần.
Hầu hết nguồn kinh phí chỉ được sử dụng cho việc quản lý, vận hành, nạo vét phát dọn công trình thủy lợi mà chưa có nâng cấp, sửa chữa.
Kinh phí cấp bù thủy lợi phí bị chi sai mục đích, không quyết toán được dẫn đến việc tồn đọng.
Kết quả, tình trạng xâm hại công trình thủy lợi và lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình diễn ra ở nhiều nơi.
Việc phát dọn, nạo vét và duy tu công trình thủy lợi bị phó mặc cho chính quyền xã, thôn bản hay do nhân dân tự quản lý.
Hàng loạt công trình bị hư hỏng, xuống cấp mà không được duy tu, bảo dưỡng kịp thời trong khi nguồn thì vẫn còn tồn trong tài khoản.
Điều chỉnh
Tháng 10/2011, tỉnh Tuyên Quang kiện toàn BQL khai thác công trình thủy lợi trên cơ sở sáp nhập 2 BQL liên huyện thành BQL cấp tỉnh.
BQL cấp tỉnh chịu trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ chuyên môn với 148 BQL cấp cơ sở còn lại. Có đầu mối hướng dẫn, những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, đặc biệt là công tác quản lý nguồn kinh phí cấp bù thủ lợi phí đã được khắc phục kịp thời.
Ông Nông Ngọc Hồng, Trưởng BQL khai thác công trình thủy lợi xã Hòa Phú, huyện Chiêm Hóa cho biết, trước kia, không có BQL cấp tỉnh, các huyện đề ra quy chế quản lý mang đặc trưng của địa phương mình.
Các công trình thủy lợi bị đặt vào tình thế “cha chung không ai khóc”.
Nguồn kinh phí cấp bù thủy lợi phí vì đó cũng bị chi tiêu mỗi nơi một phách.
Tình trạng chung là không cấp nguồn quay đầu cho việc duy tu, sửa chữa.
Thậm chí, có nơi còn sử dụng kinh phí vào những công việc tréo ngoe, ngoài chuyên môn.
Thông qua điều chỉnh, việc nạo vét, phát dọn hệ thống kênh mương cơ bản đáp ứng đúng thời vụ; vận hành công trình theo đúng quy trình kỹ thuật, việc điều tiết nước tưới, tiêu hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo chủ động nguồn nước phục vụ SX.
Tuyên Quang là một trong 3 địa phương trong cả nước thực hiện khai thác, quản lý công trình thủy lợi theo mô hình BQL.
Theo ông Hùng, hiện tại, các BQL khai thác công trình thủy lợi ở Tuyên Quang đã cơ bản vào guồng quay.
Sức ép về việc mất an toàn hồ đập được giảm xuống, các công trình thủy lợi phát huy được công năng sử dụng.
Trạng thái ổn định nói trên được duy trì là do sự thay đổi cơ chế, mô hình trong quản lý, khai thác mà lãnh đạo địa phương đã chỉ đạo thực hiện.
Năm 2012, các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đảm bảo tưới cho 36.408 ha, đạt 99,7% diện tích đã ký theo hợp đồng.
Năm 2013, diện tích nghiệm thu thanh lý đạt 38.145 ha, đạt 99,8%.
Năm 2014, diện tích tưới đạt 99,9 % với 38.277 ha.
Ông Nguyễn Văn Phủ, Trưởng BQL công trình thủy lợi xã Yên Phú, huyện Hàm Yên cho biết, nhờ quyết định điều chỉnh của UBND tỉnh Tuyên Quang mà việc sử dụng nguồn kinh phí cấp bù thủy lợi phí đã theo đúng các quy định, hướng dẫn, hạn chế được sai phạm không đáng có ở cơ sở.
BQL công trình thủy lợi xã Yên Phú có 27 thành viên gồm 5 thường trực và 22 trưởng thôn chịu trách nhiệm quản lý, vận hành 29 công trình thủy lợi với 2 hồ chứa và 27 đập dâng.
Chịu sự chỉ đạo của BQL tỉnh, cấp cơ sở đã thực hiện rà soát, điều chỉnh bổ sung cấp bù thủy lợi phí; hồ sơ hợp đồng tưới tiêu, cấp nước, nghiệm thu, thanh lý được thực hiện đầy đủ.
Đặc biệt, nguồn kinh phí trên đã được sử dụng cho việc nâng cấp, làm mới các công trình.
Ông Lê Hải Hùng, Trưởng BQL khai thác công trình thủy lợi tỉnh Tuyên Quang cho biết, thông qua điều tiết của BQL cấp tỉnh, có tới 63% nguồn kinh phí cấp bù thủy lợi phí được sử dụng vào việc sửa chữa, nâng cấp và xây mới các công trình thủy lợi.
Như vậy, chỉ có 37% nguồn kinh phí được sử dụng đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành, nạo vét và phát dọn công trình.
Năm 2012, tỉnh Tuyên Quang đã thực hiện nâng cấp, sửa chữa và làm mới được gần 37.000 km kênh mương, sửa chữa 105 công trình thủy lợi; năm 2013, thực hiện sửa chữa 485 công trình xuống cấp, hư hại; năm 2014, tu sửa 176 công trình thủy lợi đầu mối…
Tổng nguồn chi nâng cấp, sửa chữa và làm mới của 3 năm lên tới xấp xỉ 70 tỷ đồng.
Related news
Sơn La Quản Lý Và Bảo Vệ Tốt Nguồn Lợi Thủy Sản Tỉnh Sơn La hiện có 2 lòng hồ thủy điện Hoà Bình và Sơn La, có hệ sinh vật thủy sản rất đa dạng phong phú. Theo kết quả điều tra khu hệ cá hồ thủy điện Hoà Bình có 123 loài cá thuộc 79 giống, 19 họ và khoảng 16 loài động vật đáy, được chia thành 3 dòng cơ bản: cá nhập nội, cá đồng bằng Bắc Bộ và các loài thuỷ sản đặc trưng cho miền núi Tây Bắc.
Cần Xây Dựng Cơ Chế Vay Vốn Theo Chuỗi Sản Xuất Thủy Sản Mặc dù việc cho vay theo chuổi sản xuất thủy sản đã được các tổ chức tín dụng quan tâm, thực hiện nhưng hiện tại vẫn chưa có hướng dẫn, quy định nào tạo điều kiện cho doanh nghiệp (DN) thủy san có một cơ chế vay phù hợp với đặc điểm của ngành. Từ thực tế này, đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế phù hợp với đặc điểm của ngành thủy sản để tạo điều kiện cho cả DN và ngành ngân hàng (NH) có cơ chế vay và cho vay phù hợp.
Bệnh Hoại Tử Gan Tụy Trên Tôm Bùng Phát Mạnh Ở Vĩnh Châu (Sóc Trăng) Vùng nuôi tôm ở Sóc Trăng đang đứng trước nhiều khó khăn do diễn biến của bệnh, dịch bệnh trên tôm có dấu hiệu bộc phát trong giai đoạn đầu mùa mưa. Hiện nay ở thị xã Vĩnh Châu mức độ thiệt hại lên đến hơn 46%, có nhiều vùng nuôi mức độ thiệt hại chiếm rất cao, gây thiệt hại nặng cho nông dân.
Xuất Cấp Hóa Chất Phòng Dịch Trên Tôm Nuôi Bộ NNPTNT vừa chỉ đạo Công ty TNHH Tân An xuất không thu tiền 30 tấn hóa chất sát trùng Chlorine để hỗ trợ tỉnh Kiên Giang phòng, chống dịch bệnh tôm nuôi.
Hiệu Quả Bước Đầu Từ Mô Hình “Nuôi Bò Vỗ Béo” Ở Phước Ninh (Ninh Thuận) Đầu năm 2013, từ nguồn vốn Qũy hỗ trợ nông dân, Hội Nông dân xã Phước Ninh (Thuận Nam, Ninh Thuận) đã triển khai Chương trình “Nuôi bò vỗ béo” cho nông dân thôn Thiện Đức. Sau hơn một năm thực hiện, mô hình đã mang lại nguồn thu nhập cao, góp phần ổn định cuộc sống cho nhiều hộ nông dân còn khó khăn.