Hiệu Quả Từ Sản Xuất Chè Vụ Đông

Xã Phúc Xuân (T.P Thái Nguyên) hiện có gần 330ha chè, trong đó, chè vụ đông chiếm 70% diện tích. Khoảng 15 năm trở lại đây, chè vụ đông đã trở thành nguồn thu nhập chính của người làm chè nơi đây.
Trên con đường bê tông phẳng phiu, uốn lượn qua những nương chè xanh ngát, chúng tôi đến nhà ông Trần Duy Hưng ở xóm Cây Thị, một trong những hộ làm chè Đông lâu năm của xã. Ông cho biết : Vì chủ động được nguồn nước tưới nên năm nào nhà tôi cũng làm 10 sào chè vụ đông.
Hiện, gia đình có 2 giếng khoan, 2 bể chứa để trữ nước và 10 vòi phun nước tự động tưới cho chè 2 lần/tuần. Nhờ chăm sóc tốt nên một năm gia đình tôi thu hái được thêm 2 lứa chè vụ đông, mỗi lứa được 75kg, cho thu nhập 45 triệu đồng/lứa.
Tương tự như ông Hưng, ông Nguyễn Đức Lực, một hộ làm chè ở xóm Dộc Lầy chia sẻ: Gia đình tôi làm chè từ năm 1978. Hiện nay, tôi có 20 sào chè. Để sản xuất chè vụ đông, hàng năm, cứ đến tháng 9 là tôi bắt đầu đốn chè, khoảng 2 tháng sau tôi được hái lứa chè đầu tiên. Làm chè vụ đông có ưu điểm hơn làm chè chính vụ là ít sâu bệnh, không cần phun thuốc nhiều nhưng đòi hỏi công chăm bón, hệ thống nước tưới đầu tư nhiều hơn.
Tết Nguyên đán năm ngoái, tôi bán được 500 nghìn đồng/kg chè, trong khi chè chính vụ chỉ bán được 160 - 180 nghìn đồng/kg.
Có thể nói, làm chè vụ đông cho thu nhập cao nhưng không dễ và không phải địa phương nào cũng làm được. Ngoài việc tận dụng nguồn nước tự nhiên, bà con xã Phúc Xuân còn tích cực chủ động nguồn nước tưới cho cây chè từ giếng khoan. Theo ông Trần Văn Ngũ, Trưởng xóm Cây Thị thì hiện tại, gia đình nào trong xã cũng đầu tư từ 1 - 2 giếng khoan để phục vụ tưới chè.
Ngoài việc cung cấp nước tưới đầy đủ, bón phân cũng là một khâu quan trọng giúp cây chè vụ đông phát triển và cho năng suất cao. Chị Tống Thị Kim Thoa, xã viên HTX chè Tân Hương chia sẻ: Đối với chè vụ đông, bà con thường bón phân hữu cơ nhưng ủ mục và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong danh mục, thuốc thảo mộc...
Khi bón thì bón theo kỹ thuật rạch, lấp, tuyệt đối không được bón vãi, có thế mới giữ được phân trong đất lâu hơn, chè mới bền cây, đạt sản lượng cao, chất lượng chè thơm ngon an toàn, bán được giá cao. Vào dịp Tết Nguyên đán hàng năm, chè do xã viên HTX Tân Hương làm ra nhiều khi không đáp ứng đủ nhu cầu nên rất nhiều khách hàng đặt mua chè từ trước đó khoảng 1 tháng.
Được biết, Phúc Xuân hiện có gần 1.500 hộ dân thì có đến 90% số hộ sống phụ thuộc chủ yếu vào cây chè. Trước kia, bà con chỉ quen với việc sản xuất chè chính vụ (từ tháng 4 đến tháng 9). Mấy năm trở lại đây, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc chăm sóc, chế biến, đầu tư hệ thống phun tưới sản xuấtchè vụ đông nên năng suất chè của xã đã tăng lên đáng kể. Năm 2013, tổng sản lượng chè búp tươi của xã chỉ đạt 3.200 tấn/năm, năm 2014 tăng lên 3.700 tấn/năm.
Các xóm có truyền thống làm chè vụ đông: Cây Thị, Khuôn 5, Đèo Đá, Dộc Lầy... Hiện, xã có 7 làng nghề chè truyền thống, trong đó sản phẩm của HTX chè Tân Hương, xóm Cây Thị đã được công nhận đạt tiêu chuẩn toàn cầu UTZ Certified vào năm 2011 (là HTX đầu tiên của Việt Nam được cấp giấy chứng nhận này).
Anh Trần Văn Cường, Phó Chủ tịch UBND xã cho biết: Để hỗ trợ bà con trong sản xuất, chúng tôi thường xuyên phối hợp với Trạm Khuyến nông thành phố tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật sản xuất chè an toàn cho bà con; tạo điều kiện cho các hộ được tiếp cận các nguồn vốn vay để đầu tư các thiết bị làm chè vụ đông... Ngoài ra, chúng tôi cũng đề nghị với cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ kinh phí để xây mới hệ thống kênh mương từ hồ Núi Cốc về xã, đảm bảo nguồn nước tưới thường xuyên cho cây chè...
Related news
Từ xuất phát điểm là một hộ gia đình khó khăn, sau hơn 10 năm phát triển mô hình kinh tế vườn ao chuồng, gia đình anh Nguyễn Văn Nhật (SN 1972, ở thôn Duyên Linh, xã Đình Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên) đã sở hữu 30 cây nhãn giống mới, gần 1 mẫu ao, 150 con lợn nái và hàng nghìn con lợn thịt được nuôi trong hệ thống “chuồng lạnh” khép kín, mang lại lợi nhuận hàng tỷ đồng mỗi năm.

Nuôi bò và dê ngày càng phát triển rộng trên địa bàn tỉnh Bình Phước do mang lại hiệu quả kinh tế và được thị trường tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên, vùng đồng bào Xêtiêng ở khu phố Đông Phất, phường Hưng Chiến, thị xã Bình Long, nuôi trâu lại là thói quen nhiều đời và góp phần quan trọng vào việc ổn định cuộc sống của họ.

Từng là hướng dẫn viên du lịch của một công ty lữ hành tại thủ đô, rồi là nhân viên của Tập đoàn Mobifone, nhưng trong tâm khảm của anh Phạm Văn Nhật (xóm 4, xã Khánh Tiên, Yên Khánh, Ninh Bình) vẫn canh cánh mong ước làm giàu từ chính mảnh đất quê hương. Rời xa chốn phồn hoa đô hội, anh Phạm Văn Nhật đã trở về mảnh đất “chôn rau cắt rốn”, xây dựng trang trại chăn nuôi, nuôi chí làm giàu.

Với quy trình nuôi đơn giản, không đòi hỏi vốn đầu tư nhiều, nhu cầu thị trường rất lớn, hiệu quả kinh tế từ nuôi chim bồ câu đã được khẳng định, đem lại thu nhập cao cho bà con nông dân. Hiện nay, mô hình nuôi chim bồ câu kết hợp với gia cầm của gia đình thương binh Phí Văn Chắc (thôn Phú Bắc, xã Đông Á, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) đang cho thu nhập ổn định 150 triệu đồng/năm.

Sau thời gian sụt giảm, có thời điểm chỉ còn 180.000 đ/tạ- 60kg, thì hơn tuần nay giá khoai lang tím Nhật tại Bình Tân (Vĩnh Long) đã tăng trở lại với mức giá từ 400.000 - 500.000 đ/tạ.