Gạo Nhân Tạo Ở Bogor Ngon Thật!

Mới ra đời từ năm 2011, “gạo nhân tạo” còn quá mới để thuyết phục người tiêu dùng, nhưng dù sao hướng đi của các nhà khoa học Indonesia trong chuyện tìm kiếm sản phẩm thay thế gạo hoàn toàn đúng đắn. Bài học “gạo nhân tạo” của Indonesia đáng để nhiều quốc gia học hỏi.
“Các bạn hãy thưởng thức những chiếc bánh do chúng tôi làm bằng sản phẩm thay thế gạo rồi cho biết cảm nghĩ”, GS.TS Purwiyatno Hariyadi – giám đốc trung tâm Công nghệ, khoa học nông nghiệp và thực phẩm Đông Nam Á (SEAFAST) thuộc đại học Nông nghiệp Bogor (Indonesia) – nói như thế với đoàn nhà báo khoa học Việt Nam tham quan SEAFAST vào sáng ngày 23.4.
Trước chuyến đi Bogor (Indonesia), tôi định bụng phải ăn bằng được những sản phẩm của SEAFAST để biết sản phẩm thay thế gạo là gì và “gạo nhân tạo” (artificial rice) – sáng tạo chính của SEAFAST – có khác gì gạo tự nhiên hay không. Tôi đã thoả mãn bước đầu, những chiếc bánh làm từ sản phẩm thay thế gạo – thành phần là nhiều loại củ và chất xơ sẵn có ở Indonesia – mang màu vàng nâu, mềm dẻo, nhưng lại không quá ngọt. Không chỉ tôi, các thành viên trong đoàn đều tấm tắc khen ngon.
Ý tưởng tạo ra sản phẩm thay thế gạo xuất phát từ thách thức rất lớn mà đất nước vạn đảo đang đối mặt: diện tích trồng lúa không nhiều, manh mún, trong khi dân chúng rất chuộng gạo và dân số tăng quá nhanh.
Thống kê cho thấy Indonesia là một trong những quốc gia tiêu thụ gạo nhiều nhất thế giới khi mỗi đầu người tiêu thụ 140kg gạo/năm, trong khi cứ mỗi mười năm nước này lại có thêm… 75 triệu miệng ăn (dân số Indonesia hiện nay là 240 triệu)! Do đó, dù là nước sản xuất gạo đứng thứ ba thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng Indonesia lại nhập khẩu gạo và lệ thuộc nhiều vào gạo.
SEAFAST nghiên cứu rất bài bản. Những sản phẩm thay thế gạo làm ra đều phải qua khâu nếm thử, đánh giá cảm quan, mùi vị trước khi tung ra thị trường. Chuyên viên tư vấn Dase Hunaefi dẫn chúng tôi tham quan phòng thí nghiệm đánh giá cảm quan, ở đây có những ô nhỏ dành cho người ngồi nếm thử thực phẩm. Công việc những người này đơn giản nhưng rất quan trọng, thưởng thức những mẫu thực phẩm làm ra bởi SEAFAST rồi cho điểm.
Có thể xem “gạo nhân tạo”, là sản phẩm tiêu biểu của SEAFAST. Trong tiếng Bahasa (ngôn ngữ chính của Indonesia), người ta gọi là “beras analog” nghĩa là “gạo tương tự” vì nó có hình dạng như gạo nhưng lại được làm bằng bột của bắp, lúa miến (sorghum), sago (một loại cây cọ), bổ sung thêm chất xơ, chất chống ôxy hoá và vài thành phần khác.
Lợi ích chính của “gạo nhân tạo” là nó được nấu trực tiếp không cần phải vo như gạo tự nhiên. Thế nhưng giá nó vẫn còn khá đắt, tuỳ theo thành phần bổ sung mà giá mỗi ký từ 9.000 – 14.000 rupiah (18.000 – 28.000 đồng), vì thế nó chỉ phù hợp với người khá giả trở lên.
Hành trình khám phá SEAFAST của chúng tôi kết thúc hơn giữa trưa, bằng việc thưởng thức món cơm Indonesia nấu bằng “gạo nhân tạo” tại một trung tâm thương mại. Phải ăn một lần cho biết.
Về mặt cảm quan, sau khi nấu xong, “gạo nhân tạo” không khác gì gạo tự nhiên, nhưng ăn vào thì cảm nhận ngay độ dẻo và mùi vị của bắp. “Tôi không thích ăn lắm”, Harry Surjadi, nhà báo khoa học Indonesia cùng ăn với chúng tôi, không hề giấu giếm.
Mới ra đời từ năm 2011, “gạo nhân tạo” còn quá mới để thuyết phục người tiêu dùng, nhưng dù sao hướng đi của các nhà khoa học Indonesia trong chuyện tìm kiếm sản phẩm thay thế gạo hoàn toàn đúng đắn.
Tận dụng nguồn nông sản bản địa sẵn có, đa dạng nguồn lương thực để không phụ thuộc vào bất kỳ cây trồng nào là bài học cho con người khi thiên nhiên là hữu hạn nhưng nhu cầu nhân loại lại vô hạn.
Với mục đích nâng cao nhận thức của con người về chuyện này, từ năm 2012 đại học Nông nghiệp Bogor đã phối hợp với chính quyền thành phố Depoka, Tây Java, phát động chiến dịch “Một ngày không gạo”.
Related news

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong năm qua khu vực đồng bằng sông Cửu Long có 102 cơ sở sản xuất cá tra giống, với sản lượng từ 25 - 28 tỉ con cá tra bột. Các địa phương có nhiều cơ sở sản xuất giống cá tra bột như Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ và Tiền Giang.

Đến hết năm 2014, diện tích mặt nước, ao nuôi thủy sản toàn tỉnh đã đạt 1.875 ha, tăng 59 ha so với năm 2013, thủy sản Lào Cai không chỉ cung cấp cho thị trường trong tỉnh mà còn mở rộng ra một số địa phương lân cận như Lai Châu, Hà Giang, Yên Bái... Cùng với mở rộng diện tích, người nuôi thủy sản đã chú trọng chuyển đổi hình thức nuôi quảng canh sang nuôi bán thâm canh, thâm canh...

Hiện nay, cua xanh thương phẩm được coi là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả. Những năm gần đây, bà con vùng nuôi trồng thủy sản xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên đã đưa vào nuôi bằng hình thức nuôi đơn hoặc nuôi ghép đối tượng khác, đem lại hiệu quả khá cao.

Lâu nay, cách câu cá ngừ đại dương truyền thống của ngư dân bằng vàng câu, thẻo câu và thậm chí câu bằng đèn cao áp, do đó cá ngừ sau khi đưa lên tàu đã không còn giữ được sắc đỏ của thịt nên thường chỉ làm được đông lạnh hoặc đóng hộp. Đây là lý do giải thích vì sao, Việt Nam hiện chỉ xuất khẩu cá ngừ ở dạng đông lạnh hay đóng hộp.

Trên địa bàn huyện Hoa Lư (Ninh Bình), diện tích đất nông nghiệp ở một số xã của huyện nằm trong vành đai đê bảo vệ của các con sông, từ tháng 7 đến tháng 10 thường xuyên chịu tác động của mưa lũ, mực nước dâng cao dễ gây nên ngập úng trên diện rộng.