Home / Tin tức / Mô hình kinh tế

Cần Một Chỗ Đứng Mới Cho Cây Đậu Nành?

Cần Một Chỗ Đứng Mới Cho Cây Đậu Nành?
Publish date: Thursday. April 3rd, 2014

Đậu nành là cây trồng có nhiều lợi thế phát triển ở ĐBSCL nhưng làm sao để nông dân mặn mà với việc phát triển sản xuất loại cây họ đậu này đang là một câu hỏi khó dành cho nhà quản lý và nhà khoa học.

Cây đậu nành là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Hầu hết đậu nành được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày cho con người và sau đó làm thức ăn chăn nuôi. Đạm trong đậu nành chứa tới 18 loại axit amin cần thiết cho cơ thể với các tỷ lệ gần giống như ở đạm động vật, do đó có thể thay thế đạm động vật trong bữa ăn hàng ngày.

Ngoài đạm ra, đậu nành còn chứa một lượng chất béo rất cao, nhiều sinh tố và muối khoáng cần thiết cho cơ thể con người. Theo kết quả phân tích của các cơ quan y tế, trong 100g đậu nành có 37,6g protein, 27g đường, 16,5g chất béo, 244mg Ca, 6,8mg Fe, 0,89mg sinh tố B1 và 1,2mg sinh tố PP.

Sản phẩm từ cây đậu nành được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu hủ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành,... đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc.

Ngoài ra, thân và rễ cây đậu nành còn có tác dụng cải tạo đất, tăng năng suất các cây trồng khác. Việc trồng xen canh cây đậu nành vừa hạn chế được dòng đời sâu bệnh phát triển, vừa góp phần làm cho đất thêm màu mỡ, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho cả lúa và đậu nành, giúp nông dân tăng thêm thu nhập và ngành chăn nuôi có thêm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi.

Luân canh cây đậu nành trên đất lúa nhằm bố trí canh tác hợp thời vụ, góp phần chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng trong toàn vùng theo hướng phát triển lợi thế của địa phương, tăng cường hợp tác doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và hơn hết là ổn định sản xuất trồng trọt tăng thu nhập cho nông dân.

Một số tỉnh của vùng ĐBSCL có nhiều diện tích trồng đậu nành như An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp... với diện tích lên đến hàng ngàn hecta.

Tuy có vùng nguyên liệu đậu nành phong phú và sản lượng lớn, nhưng công nghiệp chế biến đậu nành của nước ta chủ yếu chỉ ở mức sơ chế, khâu chế biến đậu nành chưa được đầu tư đúng mức, việc bán đậu nành thô không mang lại lợi nhuận cao cho người sản xuất.

Những năm gần đây, do lợi nhuận từ cây đậu nành không bằng những loại hoa màu khác, giá cả không ổn định nên những mô hình luân canh lúa-đậu nành chưa được nhân rộng.

Hơn nữa, hiện nay chưa có bộ giống đậu nành tốt cho năng suất cao, chưa bảo đảm lợi nhuận cho nông dân, chưa khuyến khích họ mở rộng diện tích.

Do đó diện tích trồng đậu nành giảm dần trong những năm gần đây. Riêng ở Vĩnh Long, diện tích trồng đậu nành giảm từ 1.604ha vào năm 2005 xuống còn 744ha vào năm 2010 và chỉ còn 310ha vào năm 2013…

Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, sản xuất đậu nành trong nước chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu. Tổng kim ngạch nhập khẩu đậu nành năm 2012 lên 1.276 ngàn tấn với giá trị 755 triệu USD. Bộ Nông nghiệp và PTNT khuyến khích nông dân và tìm giải pháp phát triển luân canh cây đậu nành trên đất lúa ở ĐBSCL.

Hiện nay diện tích trồng đậu nành ở các tỉnh ĐBSCL tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long và Cần Thơ với tổng diện tích trồng năm 2012 hơn 2.900ha.

Đậu nành ở ĐBSCL trồng được 2 vụ trong năm: Đông Xuân và Hè Thu, trong đó Hè Thu là vụ trồng chính. Phần lớn diện tích trồng lúa ở các huyện Lấp Vò, Lai Vung (Đồng Tháp), Chợ Mới (An Giang), Ô Môn (Cần Thơ) được thay thế bằng cây đậu nành trong vụ Hè Thu.

Viện Di truyền nông nghiệp đánh giá, hiệu quả kinh tế của vụ đậu nành thường cao hơn trồng lúa và bắp. Trồng đậu nành cho lợi nhuận bình quân từ 15- 20 triệu đồng/ha, trong khi đó trồng lúa lợi nhuận chỉ đạt 12,5 triệu đồng/ha.

Ngoài lợi nhuận do bán đậu, bà con nông dân còn lợi được một đợt bón phân cho vụ lúa Hè Thu sau đó do lượng đạm, phân hữu cơ mà thân, lá đậu để lại cho đất rất lớn.

Theo ông Đỗ Hữu Phương- Trưởng Phòng Chăn nuôi - Cục Chăn nuôi, dự kiến nhu cầu sử dụng thức ăn công nghiệp của Việt Nam vào năm 2015 đạt 16 triệu tấn và đạt 19 triệu tấn trong năm 2020.

Ngoài ra, nhu cầu sử dụng đậu nành để ép lấy dầu của các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn cùng với lộ trình giảm thuế đối với mặt hàng này về 0% là những cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới.

Theo ông, nhu cầu đậu nành tăng mạnh do ngành công nghiệp ép dầu và chế biến thức ăn chăn nuôi tăng mạnh trong những năm gần đây.

Cục Trồng trọt định hướng phát triển cây đậu nành ở ĐBSCL tại các vùng đất có điều kiện khí hậu thích hợp, không sâu trũng và không bị ngập úng.

Đồng thời ứng dụng bộ giống mới vào sản xuất như: Đậu nành VND2, Nam Vang, ATF15-1 có khả năng chịu lũ lụt vượt trội, ĐK và VCB (do Trường Đại học Thái Nguyên nghiên cứu) có khả năng chịu hạn tốt, ngoài ra còn có 3 nhóm giống đậu nành khác ngắn ngày (70- 80 ngày), giống trung ngày (85- 90 ngày) và giống dài ngày (95- 110 ngày).

Để có thể tăng diện tích trồng đậu nành trong cả nước, đặc biệt là ở ĐBSCL, Cục Trồng trọt đã đưa ra nhiều mô hình trồng đậu nành luân canh với cây lúa, nhất là những diện tích trồng độc canh liên tục 3 vụ lúa/năm ở tỉnh An Giang, đồng thời mở rộng diện tích trồng chuyên canh và luân canh ở 2 tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT- Bùi Bá Bổng chỉ đạo: “Hướng tới các tỉnh ĐBSCL cần quy hoạch lại vùng lúa kém chất lượng có thể chuyển sang 2 đậu nành + 1 lúa. Các ngành liên quan hỗ trợ kỹ thuật, giống tốt, còn phía tỉnh liên kết với các doanh nghiệp tìm đầu ra cho đậu nành. Nếu đậu nành triển khai tốt, cần quy hoạch cánh đồng mẫu lớn đậu nành tại ĐBSCL”. Ngoài ra, cần phải hoàn thiện hệ thống cơ giới hóa sản xuất, xây dựng thêm nhà máy chế biến ngay vùng nguyên liệu và thu mua sản phẩm cho nông dân với giá hợp lý.

Sự hấp dẫn và thuận lợi của cây đậu nành trên đất lúa giúp ngành nông nghiệp định hướng có thể bố trí 10% diện tích lúa ĐBSCL (khoảng 150.000ha) thay lúa Hè Thu hoặc Thu Đông bằng đậu nành tại các vùng 3 vụ lúa thiếu nước tưới mùa nắng. Nâng cao tính cạnh tranh của cây đậu nành trên đất lúa trên cơ sở tăng năng suất lên 2,5 - 3,5 tấn/ha, giá thành 6.000 đồng/kg, giá bán cạnh tranh ngang với đậu ngoại nhập khoảng 12.000 - 13.000 đ/kg, nông dân lời 150% trên vốn, cao hơn so với lúa 130%.


Related news

Nông dân vẫn khát vốn Nông dân vẫn khát vốn

Những năm qua, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, nông dân được tiếp cận với nguồn vốn này vẫn còn rất khiêm tốn.

Monday. November 2nd, 2015
Làm thêm trong mùa ruộng nghỉ Làm thêm trong mùa ruộng nghỉ

Kết thúc vụ sản xuất lúa hè thu, ruộng được “nghỉ” từ đầu tháng 9 đến cuối tháng 11. Tận dụng khoảng thời gian này, một số nông dân ở huyện Nghĩa Hành đã sản xuất rau màu hoặc chăn thả gia súc ngay trên đồng ruộng không sản xuất cho thu nhập cao…

Monday. November 2nd, 2015
Giá trái đắng tăng cao Giá trái đắng tăng cao

Tuy đã là thời điểm cuối vụ, thế nhưng dọc theo tuyến đường liên huyện Sơn Hà - Ba Tơ, trái đắng được các đại lý thu mua đem phơi rất nhiều.

Monday. November 2nd, 2015
Đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp Đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp

Trong những năm qua, ngành nông nghiệp Tuy Phước đã có những đóng góp quan trọng, thúc đẩy KT-XH của huyện phát triển, trong đó giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản bình quân hằng năm tăng 5,1%; chiếm 36% trong cơ cấu kinh tế của huyện.

Monday. November 2nd, 2015
Đề nghị cho BIDISALCO thực hiện dự án sản xuất muối sạch, muối tinh Đề nghị cho BIDISALCO thực hiện dự án sản xuất muối sạch, muối tinh

UBND tỉnh đã có văn bản gửi Bộ KH&CN về nhiệm vụ thuộc dự án “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và thiết bị sản xuất muối sạch, muối tinh và hình thành liên kết theo chuỗi giá trị giữa BIDISALCO với diêm dân tại Bình Định” thực hiện năm 2015.

Monday. November 2nd, 2015