Tuyển chọn 3 giống lúa chịu mặn

Các giống lúa đang canh tác tại vùng đất nhiễm mặn không chịu được độ mặn hơn 2‰, nhiều cánh đồng ven biển có độ mặn 4 - 6‰.
Do đó tiêu chuẩn đầu tiên của giống là phải chịu được độ mặn bằng hoặc trên 6‰, thích nghi với điều kiện cũng như tập quán canh tác của địa phương.
Một đặc điểm nữa là để phù hợp với xu thế canh tác hiện nay thì yêu cầu thời gian sinh trưởng của giống lúa từ 90 - 105 ngày, bởi các giống dài ngày (trên 105 ngày) thường bị gặp mưa bão vào cuối vụ.
Một yếu tố nữa là vụ HT ở Phú Yên ảnh hưởng gió Tây Nam, các giống lúa cây cao trên 100 cm thường bị đổ ngã ảnh hưởng lớn đến năng suất.
Qua thời gian khảo nghiệm, các giống lúa H11, GSR38, GSR50, GSR66 có thời gian sinh trưởng 110 ngày, giống GSR90 thời gian sinh trưởng ngắn nhất 103 ngày...
Về năng suất, các giống lúa thí nghiệm năng suất thực thu từ 67 - 74 tạ/ha. Giống GSR90, GSR50 cho năng suất cao nhất trong các giống thí nghiệm (lên đến 74 tạ/ha), trong khi đó giống đối chứng ML49 chỉ đạt 50 tạ/ha.
Vì vậy qua 4 vụ trồng khảo nghiệm, đến nay Chi cục BVTV Phú Yên đã xác định 3 giống lúa GSR50, GSR38 và GSR90 chịu mặn cao, sẽ đưa vào SX các vụ đến.
Theo Th.S Đặng Văn Mạnh, Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV Phú Yên, các giống lúa được tuyển chọn, ngoài đặc tính chịu mặn thì năng suất đạt trên 60 tạ/ha còn thích nghi với điều kiện sinh thái nơi đây.
Ngành nông nghiệp đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho nông dân 4 xã An Cư, An Hòa, An Ninh Đông và An Ninh Tây (huyện Tuy An) để canh tác lúa đạt hiệu quả.
Related news

Những ngày qua trên thị trường liên tục phát đi tín hiệu về giá cà phê giảm mạnh và sau đó là mối lo toan lời-lỗ của nông dân. Ðiều đáng quan tâm là phía sau câu chuyện lời-lỗ này, đang buộc nhiều nông dân cần phải tính toán lại chuyện đầu tư, tránh theo kiểu cảm tính như trước đây.

Người dân vùng Phú Tân (An Giang) từ lâu luôn tự hào về cây nếp trên “lãnh địa” của mình bởi bên cạnh lợi thế được huyện, tỉnh quy hoạch trồng trên diện rộng, áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm tăng năng suất và chất lượng, cây nếp còn cho hiệu quả kinh tế khá cao, vừa xây dựng thương hiệu hạt nếp Phú Tân ngon, dẻo đặc trưng, vừa giúp bánh phồng Phú Mỹ vươn xa ra thị trường các tỉnh bạn. Tuy nhiên, đang có nhiều nông dân ở địa phương khác “ăn theo” nếp Phú Tân, tạo nên tình trạng mất cân đối trong quy hoạch cơ cấu cây trồng.

Vài năm trở lại đây, đặc biệt từ sau Festival Chè lần thứ nhất, nhận thức về làm nghề chè của người dân Thái Nguyên đã có một sự thay đổi lớn, ý thức rất rõ ràng tầm quan trọng của việc bảo vệ thương hiệu chè sạch.

Là địa phương đứng thứ 3 của tỉnh về diện tích trồng chè với sản lượng khoảng 32 nghìn tấn/năm, cộng với sự hình thành phương thức sản xuất chè từ rất sớm, huyện Đồng Hỷ đã trở thành một trong những “cái nôi” của mảnh đất “Đệ nhất danh Trà”. Để xứng đáng với “tiếng thơm” đó, người làm chè Đồng Hỷ không ngừng nỗ lực cải thiện, nâng cao chất lượng cây chè và các sản phẩm trà, góp phần làm nên thương hiệu chung cho ngành Chè Thái Nguyên.

Nước tưới có vai trò quyết định đến năng suất, chất lượng của cây cà phê cũng như sự thành bại của người trồng cà phê sau một năm vất vả chăm sóc, bảo vệ. Nhưng hiện vai trò trọng yếu này đang bị đe dọa khi nước tưới phải đối mặt với nhiều thách thức.