Tưới Nước Tiết Kiệm Cho Lúa

Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bạc Liêu đang phổ biến và ứng dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước của Thạc sỹ Trần Văn Na (Phó Chi cục BVTV) cho các địa phương trồng lúa Đông Xuân năm 2011). Đây là kỹ thuật tưới phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của từng vùng đất, đặc biệt rất có hiệu quả đối với đất bị nhiễm phèn nhẹ của 2 huyện Phước Long và Hồng Dân - vùng trồng lúa Đông Xuân nhiều nhất tỉnh với hơn 25.000 ha.
Kỹ thuật tưới nước theo quy trình này chia làm nhiều công đoạn tưới cho cây lúa khác nhau; tưới khi cây lúa được 7 ngày, 25 ngày, 40 ngày, 75 ngày và đến lúc thu hoạch. Tùy theo từng giai đoạn phát triể của cây lúa, sẽ có chế độ tưới nước và giữ nước trên mặt ruộng khác nhau, ớc mức 1 cm, 3 cm, 5 cm... để luôn từ kênh nội đồng lên ruộng lúa và theo dõi mức nước trên ruộng.
Theo đó, mỗi ha ruộng lúa sẽ chọn 4-5 điểm cố định theo đường chéo góc hoạc theo đường zíx zắc trên thửa ruộng. Mỗi điểm đặt một ống nhựa cách bờ 3m, ống nhựa được đục thủng nhiều lỗ trên thân để nước vào, có chiều dài 25cm, đường kính 10 hoặc 20cm và được đặt sâu dưới mặt ruộng một đoạn 15 cm, trên mặt ruộng một đoạn 15cm. Đoạn ống đặt trên mặt ruộng có đánh dấu, vạch để theo dõi mức nước tướic cho ruộng lúa. Đoạn dưới mặt ruộng lấy hết phần đất trong ống để cho nước vào ống. Khi mực nước trong ống xuống thấp hơn mặt ruộng 10cm thì bơm nước cho ruộng lúa và tưới khi nào mức nước đạt đến vạch đã đánh dấu trên ống (theo từng giai đoạn tuổi của cây lúa) thì ngưng tưới.
Áp dụng đúng theo quy trình của kỹ thuật tưới nước này sẽ giảm được lượng nước tưới từ 4.00 - 4.700 met khối/ha/vụ so với cách thức tưới truyền thống của nông dân.
Related news

Bệnh vàng lùn do vi rút Rice Grassy Stunt Virus (RGSV) gây ra. Virut này xâm nhập vào cây lúa và gây bệnh thông qua môi giới là Rầy nâu (Nilaparvata lugens). Bệnh được phát hiện đầu tiên ở vùng Khu 4 cũ và sau này lây lan ra khắp các tỉnh trong cả nước, nhưng gây hại chủ yếu tại các tỉnh miền Trung và Đồng bằng sông Cửu long.

Trứng hình bầu dục, có vết lõm ở giữa, mới đẻ có màu trắng đục, sau chuyển dần màu nâu. - Bọ xít non có hình dáng giống trưởng thành, có màu vàng lục. - Con trưởng thành có màu xanh pha màu vàng nâu, con cái có thân dài hơn con đực.

Bệnh lúa von còn gọi là bệnh mạ đực, bệnh thối gốc (Foot-rot), hay bệnh vươn lóng (elongation disease). Tiếng Nhật gọi là bệnh bakanae. Do nấm Fusarium moniliforme-Gibberella fujikuroi. Bệnh có thể xuất hiện và gây hại từ khi cây lúa còn ở giai đoạn mạ cho đến lúc thu họach.

1. Chế độ phân bón: Tập quán canh tác cũ là bón phân đơn riêng rẽ, không cân đối được dinh dưỡng, dẫn đến mức độ lúa nhiễm bệnh cao, tỷ lệ hạt lép nhiều, trọng lượng hạt thấp. Biện pháp tốt nhất là bón phân đa yếu tố NPK đã được cân đối dinh dưỡng phù hợp cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Các giống lúa thuần và lúa lai sẽ có các công thức bón thúc khác nhau. Không bón thúc khi nhiệt độ thấp dưới 18 độ C.

Theo đánh giá của tổ chức Nông-Lương Liên Hợp Quốc (FAO) hàng năm tổn thất về ngũ cốc trên toàn Thế giới khoảng 13% nghĩa là 13 triệu tấn lương thực bị mất và không sử dụng được. Ở Việt Nam tỷ lệ tổn thất nông sản sau thu hoạch trên 13%, như vậy hàng năm chúng ta bị mất khoảng 3-5 triệu tấn thóc. Năm 2006 diện tích lúa của tỉnh ta là gần 41 nghìn ha và phấn đấu sản lượng đạt trên 170 nghìn tấn thóc.