Home / Hải sản / Tôm sú

Trị Bệnh Phân Trắng Cho Tôm

Trị Bệnh Phân Trắng Cho Tôm
Publish date: Sunday. July 31st, 2011

Bệnh phân trắng là một trong những bệnh gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm trong những năm gần đây, việc phòng trị bệnh chưa có hiệu quả là do đa số bà con nuôi tôm chưa xác định đúng nguyên nhân.

Triệu chứng bệnh:

Thấy xuất hiện nhiều phân tôm màu trắng trên sàn ăn.

Một số phân trắng nổi trên mặt nước, thường xuất hiện cuối gió hoặc cuối guồng hay dọc bờ ao.

Tôm giảm ăn, chậm lớn, hao hụt cao.

Bệnh thường xuất hiện trong mùa nắng nóng, nhiệt độ nước cao hoặc ao nuôi mật độ cao (trên 40 con/ m vuông).

Nguyên nhân:

Bệnh có thể do nhiều hoặc một trong những tác nhân sau:

Tảo độc tiết ra độc tố lài phá hủy bộ phận gan tụy và đường ruột tôm (tảo đỏ có roi).

Tảo lam dạng sợi làm tróc lớp biểu mô trên đường ruột tôm (nước màu xanh lục đậm)

Tôm bị nhiễm khuẩn trên đường ruột.

Do nhiễm nguyên sinh động vật (Gregarina).

Do nhiễm độc tố thức ăn (Aflatoxin).

Phòng bệnh:

Tăng cường mức nước trong ao (1,2-1,5m).

Không nên nuôi mật độ trên 40 con/m vuông.

Không nên trộn nhiều chất béo vào thức ăn tôm.

Thường xuyên trộn Oli-mos, Bayrolac vào khẩu phần thức ăn hàng ngày của tôm (2-4g/kg thức ăn), trộn chung 2 loại và cho ăn trong suốt vụ nuôi.

Sát trùng bằng nước Virkon A (0,5ppm), cứ 15 ngày/ lần để diệt khuẩn hoặc diệt vi sinh Aqua Guard (theo liều hướng dẫn) trong suốt vụ nuôi.

Không cho màu nước quá đậm, nhất là màu xanh lục đậm.

Trị bệnh:

Dùng Osamet Shrimp với liều 5-10g/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5-7 ngày vào 2 suất ăn mạnh nhất trong ngày.

Đồng thời phải sát trùng nước bằng Virkon A (liều 1ppm).

Sau khi điều trị hết bệnh thì nên chuyển sang dùng liều phòng (Oli-mos, Bayrolac) sau đó 2 ngày.

Nếu ao nuôi theo quy trình vi sinh thì cấy lại vi sinh sau khi dùng Virkon A được 2 ngày.

Trường hợp phát hiện trong ao màu tảo đậm (thông thường có màu xanh lục đậm) lúc này nên lập tức thay nước giảm tảo (dùng nước đã qua sát trùng).

Lưu ý:

Hiệu quả của việc trị bệnh sẽ phụ thuộc vào thời điểm phát hiện bệnh, nếu phát hiện trễ thì hiệu quả sẽ thấp hơn, vì lúc này tôm ít ăn hoặc bỏ ăn, nên không thể đưa thuốc qua thức ăn được. Việc xác định đúng nguyên nhân sẽ giúp cho việc trị bệnh có hiệu quả


Related news

Cấu trúc và cơ chế đáp ứng miễn dịch của tôm sú Cấu trúc và cơ chế đáp ứng miễn dịch của tôm sú

Động vật không xương sống, trong đó có tôm chỉ phát triển hệ miễn dịch tự nhiên (innate immunity). Hệ miễn dịch tự nhiên chia ra làm hai hệ thống bảo vệ chính: miễn dịch tế bào (cellular barriers) và miễn dịch dịch thể (Humoral barriers).

Tuesday. November 10th, 2015
Bệnh đóng rong ở tôm sú nuôi thâm canh và biện pháp phòng trị Bệnh đóng rong ở tôm sú nuôi thâm canh và biện pháp phòng trị

Tôm sú (penaeus monodon) là đối tượng nuôi nước lợ quan trọng và phổ biến ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Nuôi tôm sú thành công đã và đem lại nguồn thu nhập lớn cho nhiều hộ dân ven biển ĐBSCL.

Thursday. November 12th, 2015
Thiết kế ao tiên tiến - công nghệ sản xuất tôm sú cỡ lớn ở Brunei Thiết kế ao tiên tiến - công nghệ sản xuất tôm sú cỡ lớn ở Brunei

Dự án này đang triển khai các ao nuôi tăng trưởng và quy trình thực hành tiên tiến với các hệ thống tăng cường an toàn sinh học

Friday. September 25th, 2015
Quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú Quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú

Quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú

Monday. September 21st, 2015
Các vấn đề khi nuôi tôm sú độ mặn thấp Các vấn đề khi nuôi tôm sú độ mặn thấp

Tôm sú (Penaeus monodon) có khả năng sống trong các môi trường độ mặn, từ 2 phần ngàn (ppt) đến 45 phần ngàn (2-45 ppt).

Thursday. September 17th, 2015