Home / Tin tức / Mô hình kinh tế

Thâm canh cà phê bền vững

Thâm canh cà phê bền vững
Publish date: Friday. November 20th, 2015

Ngày 17/11, tại thủ phủ cà phê Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với UBND tỉnh Đăk Lăk tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp với chủ đề "Một số giải pháp thâm canh cà phê hợp lý để nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững".

Lợi thế lớn

Với độ cao từ 500 - 600m, biên độ nhiệt ngày đêm lớn, chất đất phù hợp nên Tây Nguyên là vùng trọng điểm phát triển cà phê vối của cả nước.

Cà phê ở đây có hương thơm, vị ngon, được các nhà rang xay thế giới phối trộn với các loại cà phê khác để cho ra sản phẩm cà phê hòa tan.

Bên cạnh đó, do diện tích mới trồng đều bằng giống mới, canh tác theo quy trình nông nghiệp tốt, truy nguyên nguồn gốc được mở rộng nên chất lượng cà phê xuất khẩu được nâng cao.

Công nghiệp chế biến cà phê cũng từng bước được hình thành và phát triển lớn mạnh, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Đến nay, công nghiệp chế biến cà phê nhân có công suất 1,5 triệu tấn, chế biến cà phê bột 51,7 ngàn tấn, chế biến cà phê hòa tan 12,1 ngàn tấn.

Kho bảo quản 2,36 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu chế biến, bảo quản và xuất khẩu.

Từ đây, nhiều thương hiệu cà phê của nước ta đã nổi tiếng với người tiêu dùng thế giới như Cà phê Buôn Ma Thuột, Cà phê Trung Nguyên, Vinacafe...

Chính những thương hiệu này đã đưa khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê không ngừng tăng.

Hàng năm, có 95 - 97% tổng sản lượng cà phê trong nước được xuất khẩu đến 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14% thị phần và xếp thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê nhân.

Năm 2014, Việt Nam xuất khẩu được 1,73 triệu tấn, kim ngạch 3,62 tỷ USD (so với năm 2013 tăng 33,4% về khối lượng và 32,2% về giá trị, chiếm 24,97% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản).

Nỗi lo không nhỏ

Mặc dù có nhiều lợi thế nhưng ngành cà phê Việt Nam đang phải đối diện với nhiều khó khăn.

Đó là sự phá vỡ quy hoạch, bùng nổ diện tích, dẫn theo nhiều hệ lụy khác.

Theo quy hoạch thì đến năm 2020, diện tích cà phê cả nước dừng lại ở con số 600 ngàn ha (trong đó Tây Nguyên 530 ngàn ha).

Tuy nhiên đến năm 2014, cả nước đã có 641,7 ngàn ha, vượt gần 7% theo quy hoạch.

Trong số trên thì diện tích cà phê già cỗi, cần trồng thay thế, tái canh là 140 - 160 ngàn ha.

Phần lớn diện tích này nằm trong vùng quy hoạch và trồng sớm, thuộc vùng SX tập tung có điều kiện khí hậu, đất, cơ sở hạ tầng phù hợp.

Tuy nhiên do cà phê trồng từ lâu nên đã già cỗi, dẫn đến năng suất, chất lượng thấp, tiểm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân và vị thế của ngành cà phê.

Tại diễn đàn, các nhà khoa học và nhiều nông dân đã chỉ ra một yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc vườn cây nhanh thoái hóa, đó là hầu hết diện tích cà phê đều tập trung ở nông hộ (84,8 - 89,7%).

Hầu hết các chủ vườn vì nhiều lý do khác nhau nên quá trình canh tác chưa hợp lý.

Cụ thể như bón phân không cân đối, lạm dụng thuốc BVTV, tưới nước quá mức làm suy giảm độ phì của đất.

Rất nhiều vườn cà phê chưa coi trọng việc trồng cây che bóng và chắn gió (chỉ có 18,3% diện tích cà phê được trồng cây che bóng).

TS. Phan Huy Thông: "Rất nhiều nông dân đang có tư duy "ngắn hạn".

Khi giá cao thì tập trung chăm sóc bằng cách đổ phân bón, thuốc BVTV vào vườn cây, "bóc lột" cây, khi giá xuống thì lại bỏ bê vườn.

Điều này dẫn đến cà phê sớm thoái hóa, chất lượng hạt giảm, ảnh hưởng đến môi trường...

Vì vậy, khuyến nông các cấp cần kết nối bà con nông dân với nhà khoa học, doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh cà phê để họ có thêm hiểu biết hữu ích".

Công nghệ tưới nước tiết kiệm chậm được áp dụng.

Tại Tây Nguyên vẫn chủ yếu tưới gốc, mà theo tính toán của Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên thì mỗi một đợt tưới (riêng cho cây cà phê), Tây Nguyên mất nửa triệu mét khối nước trong điều kiện nguồn nước đang ngày một khó khăn.

Ngoài ra, việc thu hái cà phê lẫn quả xanh là một hạn chế lớn đối với việc SX và xuất khẩu cà phê.

Kết quả khảo sát cho thấy tại 4 tỉnh Tây Nguyên (trừ Kon Tum) có 80% số hộ thu hoạch 1 - 2 lần/năm, 45,7% số hộ thu hoạch khi số quả chín dưới 50%, chỉ có 12,5% số hộ thu hoạch khi số quả chín trên 70%.

Ngoài ra, việc chế biến, bảo quản thiếu đồng bộ cùng nhiều hạn chế khác, đã kéo ngành cà phê Việt Nam đi chậm lại.

Cần sự bền vững

Tại diễn đàn, từ nhà quản lý, các nhà khoa học, các doanh nghiệp cà phê và phân bón, cũng như các nông dân đều thẳng thắn nhìn nhận những yếu điểm của ngành cà phê.

Đồng thời đưa ra những giải pháp tích cực, nhằm cải tạo vườn cây, nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê, để đi đến mục tiêu cuối cùng là có một môi trường tiêu thụ cà phê tốt nhất.

Ông Nguyễn Tiến Ninh, xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, Đăk Lăk:

"Việc tưới tiết kiệm là rất cần thiết.

Tuy nhiên tôi rất băn khoăn về chất lượng giống cà phê không đồng đều, trong khi mỗi giống cần có cách tưới khác nhau, do vậy vườn ra hoa không đồng đều, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng...".

Nhiều giải pháp được đưa ra như việc "Quản lý nước tưới tổng hợp cho cây cà phê" của TS. Lê Ngọc Báu, TS. Phạm Việt Hà, Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên, "Ứng dụng DRIS để bón phân theo chẩn đoán dinh dưỡng cho cà phê vối kinh doanh tại Tây Nguyên" của TS.

Nguyễn Văn Sanh, ĐH Tây Nguyên, "Quy trình kỹ thuật Tiến Nông chăm sóc cây cà phê kinh doanh" của Cty CP Công nông nghiệp Tiến Nông.

Nhiều mô hình thâm canh cà phê bền vững trong vùng cũng được giới thiệu đến diễn đàn.

Có thể nói, diễn đàn lần này diễn ra trong không khí hết sức dân chủ, thẳng thắn.

Các đại biểu đều đi thẳng vào vấn đề chính để tìm ra biện pháp tốt nhất trong việc canh tác cà phê bền vững.

Rất nhiều nông dân tham gia diễn đàn đã thực sự chú ý đến quy trình chăm sóc cây cà phê kinh doanh của Tiến Nông, cụ thể là bộ dinh dưỡng Tiến Nông chuyên dùng cho cây cà phê.

Ông Nguyễn Hồng Phong, TGĐ Cty CP Công nông nghiệp Tiến Nông trao đổi với bà con: "Với cây cà phê, không phải và không được phép bón nhiều phân mà cần bón đúng, bón khoa học".

Theo ông Phong thì mỗi năm nông dân nước ta bón quá lượng phân bón tương đương 2 tỷ USD, gây lãng phí tiền của, tồn dư chất độc trong sản phẩm và trong đất...

Vậy nên rất cần sự hiểu biết trong quá trình chăm sóc cà phê.

Đây là vấn đề tiên quyết trong việc phát triển nền cà phê bền vững ở nước ta.


Related news

Hiệu Quả Kinh Tế Từ Cây Khoai Sáp Hiệu Quả Kinh Tế Từ Cây Khoai Sáp

Năm 2009, một vài hộ dân thôn Lập Định, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm (Khánh Hòa) đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, từ một số diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng khoai sáp. Với diện tích 4 ha ban đầu, đến nay toàn xã đã có 60 ha trồng khoai sáp.

Wednesday. April 23rd, 2014
Chống Hạn Cho Cây Trồng Chống Hạn Cho Cây Trồng

Theo Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT), trong tuần qua, nhiều nơi ở các khu vực Bắc Bộ, miền Trung và Tây Nguyên không có mưa hoặc mưa nhỏ nên đã xảy ra hiện tượng hạn cục bộ.

Wednesday. April 23rd, 2014
Triển Vọng Từ Câu Lạc Bộ Sản Xuất Lúa Giống Xã Bình Thạnh Trung (Đồng Tháp) Triển Vọng Từ Câu Lạc Bộ Sản Xuất Lúa Giống Xã Bình Thạnh Trung (Đồng Tháp)

Trong khi nhiều nông dân đang loay hoay với bài toán “được mùa, mất giá”, “được giá, mất mùa” thì nhiều thành viên trong Câu lạc bộ (CLB) sản xuất lúa giống xã Bình Thạnh Trung (Đồng Tháp) lại yên tâm hơn về hạt lúa của mình làm ra. Bởi lẽ, họ tham gia vào mô hình sản xuất lúa giống được bao tiêu từ khâu gieo trồng đến khâu thu hoạch.

Wednesday. April 23rd, 2014
Xoài Cát Phù Cát (Bình Định) Xoài Cát Phù Cát (Bình Định)

Xoài cát Phù Cát (Bình Định) thuộc giống xoài cát Hòa Lộc, được sản xuất theo phương pháp VietGAP, chất lượng thơm ngon, hương vị đậm đà, mỗi quả nặng từ 0,25 - 0,6kg, giá cả phù hợp, nên đã thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.

Wednesday. April 23rd, 2014
Thành Lập Tổ Hợp Tác Trồng Ổi Lê Đài Loan Thành Lập Tổ Hợp Tác Trồng Ổi Lê Đài Loan

Xã Trừ Văn Thố, huyện Bàu Bàng (Bình Dương) vừa thành lập Tổ hợp tác trồng trọt chuyên trồng giống ổi lê Đài Loan. Ông Nguyễn Minh Trung, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Trừ Văn Thố, cho biết ổi lê Đài Loan là cây dễ trồng, chỉ từ 8 đến 10 tháng là có thu hoạch.

Wednesday. April 23rd, 2014