Rầy Nâu Hại Lúa

(Tên khoa học: Nilaparvata lugens Stal)
Thuộc Họ: Delphacidae Bộ: Homoptera
Đặc điểm hình thái:
- Trứng rầy nâu có dạng ”quả chuối tiêu”, mới đẻ trong suốt, gần nở chuyển màu vàng và có hai điểm mắt đỏ. Trứng rầy nâu đẻ thành từng ổ từ 5-12 quả nằm sát nhau theo kiểu ”úp thìa”, đầu nhỏ quay vào trong, đầu to quay ra ngoài biểu bì ngoài của bẹ lá.
- Rầy non rất linh hoạt, mới nở có màu xám trắng, tuổi 2-3 trở lên có màu nâu vàng, trong điều kiện mật độ cao có màu nâu sẫm.
- Con trưởng thành có màu nâu tối, con đực nhỏ hơn con cái. Có 2 dạng rầy trưởng thành: loại cánh dài và loại cánh ngắn.
Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại:
Vòng đời của sâu gai từ 25-30 ngày và thay đổi theo mùa.
+ Thời gian trứng: 5-14 ngày.
+ Thời gian rầy non: 12-32 ngày.
+ Thời gian rầy trưởng thành: 3-20 ngày.
Rầy cái trưởng thành có thể đẻ 150-250 trứng và có tính hướng sáng mạnh. Con trưởng thành và rầy non đều hút nhựa cây từ dảnh và lá lúa. Rầy nâu xâm nhập vào ruộng lúa ngay từ khi mới cấy và hại cả trên mạ. Rầy nâu phát sinh với mật độ cao và gây hại nặng vào giai đoạn trước lúc lúa trỗ bông, ngậm sữa và bắt đầu chín. Nếu chỉ đơn thuần rầy gây hại không là môi giới truyền bệnh thì đánh giá mức gây hại của rầy nâu là không lớn nhưng cách phòng trừ loại rầy này lại tương đối khó.
Rầy nâu có phản ứng kháng, nhiễm với các giống lúa rất rõ, nó có khả năng hình thành các nòi sinh học (Biotype) mới khi có sức ép chọn lọc của môi trường đủ lớn. Rầy có khả năng di cư đám đông rất xa và kháng thuốc cao.
Rầy nâu còn có tác hại chủ yếu là truyền lan các loại virut. Nguy hiểm hơn cả là bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá lúa. Bệnh này làm cho lá chuyển màu vàng nhạt hoặc vàng da cam và cây lúa không phát triển được, cằn cọc. Thiệt hại của loại bệnh này là rất nghiêm trọng.
Rầy nâu thích hợp với điều kiện khí hậu ấm nóng, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ. Ở Miền Nam rầy có thể gây hại liên tục các vụ lúa, còn ở phía Bắc cháy rầy thường sảy ra vào tháng 5 (vụ xuân) và cuối tháng 9 đầu tháng 10 (vụ mùa).
Phòng trừ:
● Sử dụng các giống lúa kháng rầy.
● Cấy lúa với mật độ vừa phải, bón phân cân đối NPK Có thể thả vịt vào ruộng lúa để diệt rầy.
● Khi mật độ rầy cám trên 18 con/khóm cần phun thuốc diệt rầy. Dùng các loại thuốc diệt côn trùng và thuốc diệt côn trùng nội hấp rất hữu hiệu. Có thể sử dụng các loại thuốc sau: Bassa 50EC, Regent 800WP, Trebon 20ND, Mipcin 20WP, Actara 25WG...
Related news

Vụ xuân muộn gieo cấy ở các tỉnh phía Bắc chủ yếu là các giống lúa thuần, tuy năng suất các giống lúa thuần không cao bằng giống lúa lai nhưng có ưu điểm là năng suất, chất lượng ổn định, thích nghi rộng với nhiều loại đất khác nhau, khả năng chống chịu với điều kiện thời tiết, dịch bệnh cao, thích hợp với trình độ thâm canh trung bình đến khá, phù hợp với điều kiện kinh tế, kỹ thuật của đa số hộ nông dân.

Giai đoạn đầu vụ chú ý bù lạch thường tấn công mạnh ở những ruộng bị thiếu nước, những ruộng xì phèn, khô hạn, sự phá hại của bù lạch làm cây sinh trưởng phát triển kém. dùng các loại thuốc:Ankamec, Roofer, Emagold, Brightin, Cacbosan, Map Jono, Map Winner…

Theo dự báo của Cục Bảo vệ Thực vật, vụ xuân năm nay dịch rầy nâu hại lúa có thể diễn ra trên diện rộng vào trung tuần tháng 5 đến hạ tuần tháng 6 trên lúa xuân muộn^ thuộc các tỉnh đồng bằng Trung du miền núi phía Bắc giai đoạn trổ bông đến chín đỏ đuôi. Để đảm bảo năng suất, chất lượng lúa cuối vụ bà con nông dân cần chủ động phòng trừ tốt rầy nâu.

Vì vậy, để đạt năng suất hạt 6-7 tấn/ ha/ vụ cần bón cho lúa số lượng phân bón như sau: 8-10 tấn phân chuồng, 100 -120 kg N/ ha, 100 -120 kg P2O5/ ha và 30 -60 kg K2O/ ha. Ở đất phù sa sông Hồng, sông Cửu Long, kali chưa phải là yếu tố hạn chế năng suất. Đất phèn nặng, cần tăng phân lân lên 90 - 150 kg P2O5/ ha (Mai Văn Quyền, 1995).

Lúa xuân ở miền Bắc đang sinh trưởng giai đoạn đẻ nhánh - đứng cái, điều kiện thời tiết vụ xuân ấm hơn so các năm trước kết hợp nguồn thức ăn trên đồng ruộng phong phú thuận lợi cho chuột sinh sản tích lũy số lượng lớn và gây hại mạnh.