Rầy Lưng Trắng

(Tên khoa học: Sogatella furcifera Horvath)
Thuộc Họ: Delphacidae Bộ: Homoptera
Đặc điểm hình thái:
- Trứng rầy lưng trắng có dạng ”quả chuối tiêu” như trứng rầy nâu nhưng nhỏ, dài và nhọn hơn. Trứng được đẻ thành từng ổ theo chiều dọc, chìm trong bẹ hoặc gân chính của lá, mỗi ổ từ 2-7 quả. Trứng mới đẻ trong suốt, sau chuyển màu vàng, sắp nở có hai điểm mắt đỏ.
- Rầy non mới nở có màu trắng đục, đến tuổi 3 xuất hiện các vệt vằn trên lưng.
- Rầy trưởng thành có màu đen nâu với một dải trắng trên mảnh lưng giữa. Cơ thể màu trắng kem, bụng màu đen. Con cái có hai dạng: cánh dài và cánh ngắn; con đực chỉ có một dạng hình cánh dài.
Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại:
Vòng đời của sâu gai từ 24-28 ngày.
+ Giai đoạn rầy non: 12-17 ngày.
+ Thời kỳ tiền đẻ trứng: 3-8 ngày.
Rầy cái trưởng thành có thể đẻ 150-350 trứng và đẻ liên tục trong 6 ngày, rầy trưởng thành có tính hướng quang mạnh. Con trưởng thành và rầy non đều hút nhựa cây từ dảnh và lá lúa. Rầy lưng trắng xâm nhập vào ruộng lúa khi gieo được khoảng 30 ngày và thường ít lứa trong một vụ hơn so với rầy nâu. Nếu rầy gây hại vào giai đoạn lúa trỗ bông làm cho số lượng bông và chiều dài bông giảm, hạt lúa bị lép, lửng và làm chậm quá trình chín của hạt. Rầy lưng trắng còn là môi giới truyền bệnh virus cho lúa.
Rầy lưng trắng gây hại cùng với rầy nâu, nhưng trong cùng một lứa thì rầy lưng trắng phát sinh rộ sớm hơn. Rầy lưng trắng thường có mật độ cao, gây hại nặng vào giai đoạn lúa làm đòng.
Cũng như rầy nâu, rầy lưng trắng thích hợp với điều kiện khí hậu ấm nóng, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ. Ở vùng Đồng bằng sông Hồng một năm có 6-7 lứa rầy, quan trọng nhất là lứa rầy vào tháng 4 (vụ xuân) và cuối tháng 8 đầu tháng 9 (vụ mùa). Vụ xuân thường gây hại nặng hơn vụ mùa. Rầy lưng trắng hại nặng trên các giống lúa nhiễm rầy, lúa lai; nếu thâm canh cao, bón nhiều đạm, ruộng lúa cấy dày, rậm rạp là điều kiện cho rầy lưng trắng phát sinh, phát triển. Rầy lưng trắng phân bố rộng rãi trên khắp các vùng trồng lúa của Việt Nam và trên thế giới, nó có khả năng du nhập và di truyển rất cao.
Phòng trừ:
● Sử dụng các giống lúa kháng rầy.
● Cấy lúa với mật độ vừa phải, bón phân cân đối NPK. Có thể thả vịt vào ruộng lúa để diệt rầy.
● Khi mật độ rầy cám 18-20 con/khóm cần phun thuốc diệt rầy. Dùng các loại thuốc diệt côn trùng và thuốc diệt côn trùng nội hấp rất hữu hiệu. Có thể sử dụng các loại thuốc sau: Bassa 50EC, Regent 800WP, Trebon 20ND, Mipcin 20WP, Actara 25WG.
Related news

Kết hợp với các điều kiện ngoại cảnh thường không thuận lợi như mưa nhiều, lúa khó bán và giá thấp, lúa hè thu sản xuất ngay sau vụ đông xuân nên thường bị ngộ độc hữu cơ giai đoạn sớm và đất bị xì phèn làm cho lúa xấu. Vì vậy, để giảm chi phí và tăng năng suất cho lúa thì biện pháp làm đất và bón phân là rất quan trọng.

- Sâu non mới nở có màu vàng, hai mắt đỏ, chân và râu trong suốt. Chuyển sang tuổi 2 sâu bắt đầu ăn. Sâu tuổi 2 có chân, đầu, ngực và râu màu đen; mép ngoài bụng có một điểm vàng. Sâu tuổi 3, 4 và 5 có màu xanh và có nhiều chấm đen, trắng rất rõ, cơ thể hình bầu dục.

Xin giới thiệu một số biện pháp kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian sinh trưởng của lúa mùa để khắc phục hiện tượng bất lợi này. Biện pháp canh tác

Cần căn cứ vào dự báo thời điểm trứng rầy nở rộ, rầy cám tuổi 1-3 chiếm tỷ lệ cao của cơ quan bảo vệ thực vật các địa phương để quyết định thời điểm phun trừ.

Theo ông Phát, giống lúa lai HR 182 kháng sâu bệnh tốt, suốt vụ vừa qua tôi chỉ phải phun một lần duy nhất (thuốc dưỡng, cộng với thuốc trừ sâu để giữ lá đòng), trong khi làm lúa thuần phải phun từ 4-5 lần. Cuối vụ, bệnh đạo ôn có xuất hiện lác đác nhưng chỉ 2-3 ngày là vết bệnh tự khô, không cần phun thuốc. Năng suất lúa đạt 1 tấn/công, trước đây làm các giống lúa thuần chỉ đạt 700-800 kg/công.