Quản Lý Ao Nuôi Tôm Khi Thời Tiết Bất Lợi

Vào hè, thời tiết diễn biến bất lợi, nắng nóng kéo dài nên dễ phát sinh dịch bệnh trong môi trường ao nuôi tôm. Việc quản lý và điều khiển các yếu tố môi trường cho phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của tôm sẽ góp phần ngăn chặn dịch bệnh phát sinh. 2Lúa xin giới thiệu đến bà con một số biện pháp kỹ thuật khi quản lý môi trường ao nuôi.
Màu nước: Nên có màu xanh nâu, vàng nâu hoặc xanh lá chuối non. Màu xanh lam hoặc xanh lục đều không tốt. Khi tảo tàn đột ngột, thay đổi điều kiện môi trường ao, sẽ gây sốc cho tôm làm tôm giảm ăn. Với ao nuôi tôm trên cát khó gây màu do có độ mặn cao, lượng vi sinh vật thấp, nghèo dinh dưỡng, cần thiết phải cấy vi sinh và gây màu với liều lượng cao hơn thông thường. Dùng men vi sinh hoà nước tạt đều khắp ao. Quạt nước cung cấp oxy hòa tan để vi sinh phát triển. Lưu ý, vào thời điểm sáng sớm và khuya để cung cấp oxy kịp thời cho tảo phát triển. Bổ sung thêm vôi Dolomite, vôi nông nghiệp cũng là biện pháp nâng độ kiềm và kích thích màu nước phát triển.
Độ sâu của nước ao: Không dưới 1 m; tốt nhất là 1,5 m, môi trường sống của tôm ổn định
Mời bà con tham khảo thiết bị tạo Ô xy cho ao nuôi, trại giống công nghệ tiên tiến: |
Độ trong của ao nuôi: Nên ở mức 40 - 60cm trong vòng 60 ngày đầu. Từ ngày 60 đến khi thu hoạch, độ trong tốt nhất là ở mức 35 - 45cm. Màu nước tốt sẽ hạn chế cường độ ánh sáng chiếu xuống đáy để hạn chế tảo đáy phát triển và đồng thời cũng ổn định nhiệt độ nước. Khi độ trong ao > 50cm, ta nên gây màu vào lúc nắng, thường sử dụng phân NPK (loại 20-20-0) với Urê theo tỷ lệ 1:1 với lượng 1-2 kg/1000m3 trong 2-3 ngày.
Đối với ao gây màu khó cần bổ sung thêm hỗn hợp nấu chín với tỷ lệ bột cá, đậu nành: cám gạo là 4:1:1 với lượng 1-2 kg/1000m3. Nếu độ trong thấp < 30cm, tảo phát triển qúa mạnh sẽ làm cho pH, hàm lượng oxy biến động lớn trong ngày, có nguy cơ tảo tàn hàng loạt gây ô nhiễm môi trường, do đó cần có biện pháp khống chế sự phát triển của tảo như thay 20-30% nước trong ao, dùng đường cát hòa tan 2 -3kg/1000m3 hoặc Formalin 1-2lít /1000m3 (sử dụng vào khu vực cuối gió, có tảo đậm) vào lúc 9-10 giờ sáng.
Men Vi Sinh, Dinh Dưỡng và Kháng Sinh dành cho tôm: Đặc trị Tôm còi, chậm lớn, ăn yếu, ốp thân Ngăn ngừa và đặc trị các bệnh về gan Men tiêu hoá kích thích tôm thèm ăn, nở ruột to, phân dài |
Oxy hoà tan duy trì trên 4 ppm. Oxy hoà tan có tác động trực tiếp đến chế độ ăn, trao đổi chất, sức khoẻ và tỷ lệ sống của tôm. Nếu oxy thiếu tôm sẽ có biểu hiện giảm ăn, chậm lớn, mang tôm có màu hồng. Vì nuôi với mật độ cao nên rất dễ bị tình trạng thiếu oxy, nhất là từ thời gian sau 45 ngày tuổi, nếu kéo dài tôm sẽ bị nổi đầu chết hàng loạt. Ðể tăng cường lượng oxy hòa tan trong ao nuôi cần sử dụng các loại thiết bị như: máy quạt nước, máy sục khí...
Oxy hòa tan trong ao còn liên quan mật thiết đến sự phát triển của tảo, bị tiêu hao do quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong ao. Do oxy thường giảm thấp vào ban đêm, nhất là vào lúc 2 – 5 giờ sáng nên cần cung cấp oxy ở những thời điểm này tránh tình trạng tôm bị ngạt và nổi đầu. Ngoài ra, cần bổ sung các vi sinh vật có lợi, phát triển thúc đẩy qúa trình phân hủy các chất hữu cơ làm sạch đáy ao.
pH duy trì nước trong khoảng 7.5 - 8.5, pH dao động trong ngày quá 0,5 sẽ gây bất lợi cho sự sinh trưởng của tôm. pH càng cao tôm càng dễ bị nhiễm độc NH3. Sự biến động của pH hàng ngày trong ao phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của tảo. Nếu pH thấp hơn hoặc cao hơn, phải thay nước và bón vôi Dolomite hoặc vôi nông nghiệp với lượng 150 - 300 kg/ha. Định kỳ dùng vôi nông nghiệp 7- 10 ngày/lần vào buổi tối với lượng 10-15 kg/1000m3 để ổn định pH và hàm lượng kiềm trong ao, tạo điều kiện cho tôm lột xác
Related news

Tôm hiện là một trong những loài thủy sản nuôi nhiều nhất và đem lại lợi nhuận cao cho bà con nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cũng không ít nông dân phải lao đao vì tôm mắc bệnh. Để giúp bà con phòng tránh những hiểm họa trong nuôi tôm, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh và đưa ra cách phòng tránh chung giúp bà con phần nào hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra.

Nuôi tôm biển là một nghề mang lại lợi nhuận lớn cho người nông dân ĐBSCL. Song những năm gần đây dịch bệnh cho tôm nuôi ở đây đã gây những tổn thất lớn cho nhiều người nuôi. Kết quả khảo sát cho thấy bệnh trên tôm sú nuôi thường xuất hiện vào tháng 2-3 hàng năm. Những bệnh chính xuất hiện trên tôm sú nuôi ở ĐBSCL gồm cả vi khuẩn (nhóm Vibrio), virus (MBV, WSSV). Chúng xuất hiện trên tất cả các mô hình nuôi: quảng canh, bán thâm canh, "tôm - lúa", nuôi công nghiệp... Tác nhân gây bùng nổ dịch bệnh trên tôm nuôi trong những năm qua, chủ yếu do mầm bệnh MBV kết hợp với một tác nhân là vi khuẩn gây bệnh.

Thường phát hiện bệnh này trong ao nuôi thả tôm mật độ cao, trong ao nuôi theo hệ thống không thay nước hoặc ít thay nước. Ammonia sẽ làm ảnh hưởng tới mang tôm làm có màu đen và nhiều khi có các chất hữu cơ hoặc vô cơ vào trong mang tôm, nếu không xử lý sẽ làm tôm nhiễm bệnh từ vi khuẩn. Bình thường bệnh đen mang xảy ra lúc tôm lớn (tôm được hai tháng rưỡi tới ba tháng trở lên).

Quy trình này quy định trình tự, nội dung và những yêu cầu kỹ thuật để nuôi thâm canh tôm sú (Penaeus monodon Fabricus 1798). Quy trình áp dụng cho các cơ sở nuôi thâm canh tôm sú trong cả nước để đạt năng suất từ 3 đến 5 tấn/ha/vụ.

Đóng rong là một bệnh chủ yếu do môi trường tạo ra trong đó các tác nhân chính là tảo, nấm, động vật nguyên sinh và vi khuẩn tác động lên nhau tạo thành bệnh. Bệnh đóng rong rất dễ nhận biết, toàn thân bị dơ, tập trung ở phần đầu ngực hay toàn thân, mang và các phụ bộ. Tôm bị bệnh này rất yếu, bỏ ăn, ít di chuyển và cặp mé bờ, đồng thời mang thường bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc