Phòng Và Trị Bệnh Nhiễm Trùng Máu (Đốm Đỏ) Trên Cá Tra

Bệnh thường xuất hiện vào mùa khô (tháng 3-6) và có thể kéo dài đến tháng 10. Cá bị xuất hiện đốm đỏ trên thân cá. Tỉ lệ chết có thể lên đến 80%.
Nguyên nhân gây bệnh
Nhóm vi khuẩn gây bệnh chủ yếu thuộc giống Aeromonas. Vi khuẩn thường sống bình thường trong nước, đặc biệt là nước có chứa nhiều chất hữu cơ. Cá tra có thể nhiễm ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng, cá con dễ bị nhiễm bệnh hơn cá trưởng thành. Tỉ lệ chết có thể lên đến 80 %.
Các triệu chứng điển hình
Cá thường tách đàn, hoạt động yếu ớt, bỏ ăn dần; xuất hiện các đốm đỏ trên thân cá, gốc vây, miệng và xuất huyết; da cá bị sậm màu, râu bị xuất huyết hoặc bạc trắng; vây bị rách, cụt; xuất huyết ở mô mỡ, dạ dày, tuyến sinh dục; mắt cá bị đục, lồi ra ngoài; xoang bụng tiết dịch nhờn, túi mật sưng to, gan đổi màu thành màu xanh tái, máu bị nhiễm trùng. Dựa vào triệu chứng người ta thường gọi bệnh này là bệnh đốm đỏ, bệnh xuất huyết hoặc bệnh lở loét trên cá.
Mùa vụ xuất hiện:
Bệnh thường xảy ra vào mô khô (tháng 3-6) và có thể kéo dài đến tháng 10 hàng năm.
Biện pháp phòng bệnh
Quản lý môi trường nuôi thật tốt, tránh làm cá bị xây xát, phòng tránh các bệnh ngoài da khác. Thường xuyên tăng sức đề kháng cho cá bằng cách bổ sung vitamin vào thức ăn cho cá ăn. Dùng Cetafish hoặc Nova – C với liều 100 g/2 kg thức ăn cho cá ăn thường xuyên; dùng Betamin trộn với liều 100g/10 kg thức ăn cho cá ăn liên tục trong nhiều ngày.
Kết hợp dùng kháng sinh phòng bệnh như: trộn Nova – Flor 500 với thức ăn theo liều 100ml/30 kg thức ăn cho cá ăn liên tục 3 ngày, 2-3 tuần dùng thuốc 1 lần; định kỳ dùng Avaxide 7-10 ngày 1 lần, sau 48 giờ sử dụng thêm Zeofish liều 6 kg/1.000 m3 nước để làm sạch môi trường ao nuôi. Sát trùng ao nuôi bằng vôi định kỳ mỗi tháng 1 lần. Trong mùa thường xảy ra dịch bệnh nên xử lý vôi định kỳ 2 tuần 1 lần với liều 20 g/m3.
Biện pháp điều trị bệnh:
Tăng cường sức đề kháng cho cá bằng cách dùng Cetafish hoặc Nova – C với liều 100 g/2 kg thức ăn cho cá ăn cho đến khi hết bệnh, có thể dùng NOVAMIN F hoặc ANTIDO; dùng Nova – Flor 500 trộn với thức ăn theo liều 100ml/ 20 kg thức ăn cho cá ăn liên tục 7 – 10 ngày. Ngoài ra có thể dùng kháng sinh Noav – Flor 2000 hoặc Thiacol trên cá con nên dùng dung dịch NaCl nồng độ 2-3% tắm cho cá trong vòng 5-10 phút. Thường xuyên sát trùng nguồn nước ao nuôi bằng Sundine 57 với liều 1lít / 1.000 m3 nước.
Ngoài ra bà con chăn nuôi cần sử dụng thức ăn hỗn hợp chất lượng cao để bảo đảm cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cá, giúp sức khỏe cá được tốt hơn cũng như khả năng đề kháng cao hơn. Bên cạnh đó nên chọn con giống ở những cơ sở có uy tín, chất lượng để hạn chế mầm bệnh lây lan.
Related news

Trong giai đoạn cá giông thì bệnh này tỏ ra khá phổ biến. Khi mới nhiễm bệnh, thân cá cổ lớp nhớt màu hơi trắng đục, cá thường nổi ở gần mặt nước và tập trung lại nơi nước chảy. Khi bị bệnh nặng, cá lờ đờ rồi chìm xuống ao, chết trong một thời gian ngắn sau đó.

Sau mỗi vụ nuôi, chủ hộ nuôi cá tra đều phải cải tạo ao bằng biện pháp nạo vét càng nhiều càng tốt lớp bùn lắng tụ dưới đáy ao để việc bón vôi đạt hiệu quả cao.

Theo như ý kiến của nhiều chuyên gia thủy sản, khi cá tra ăn mồi với lượng không ổn định, thường ăn rất trễ trong ngày và có biểu hiện hơi nhát có thể là do tầng đáy ao nuôi bị nhiễm phèn, do trời chuyển lạnh nên nhiệt độ ở tầng nước mặt bị giảm thấp và do chất vẩn hữu cơ lơ lửng trong nước quá nhiều.

Cá tra đã trở thành đối tượng cá nước ngọt được nuôi chủ yếu ở ĐBSCL. Sản lượng cá tra tăng nhanh từ khi nghề nuôi đã chủ động được nguồn giống và phát triển tốt thị trường xuất khẩu.

Ao ương cá nên chọn ở những nơi gần kênh, rạch để tiện cho việc cấp thoát nước và chăm sóc quản lý. Không trồng cây lớn quanh bờ ao vì cây lớn sẽ che ánh sáng mặt trời và lá cây rụng xuống làm thối nước gây ô nhiễm môi trường.