Phòng Bệnh Cho Cá Lóc
Trong nuôi cá nói chung và cá lóc nói riêng, việc phòng bệnh vô cùng quan trọng.
Bởi phòng bệnh là tránh đưa mầm bệnh từ bên ngoài vào hệ thống ương nuôi, hoặc ngăn ngừa mầm bệnh phát triển, trị bệnh chỉ là giải pháp tình thế cuối cùng. Về thức ăn phải vệ sinh, tươi, sống; thức ăn công nghiệp phải đầy đủ dinh dưỡng và khoáng chất.
Sau đây cần lưu ý một số bệnh thường gặp và cách phòng, trị cụ thể cho từng loại:
Bệnh lở loét: Cá có triệu chứng ít ăn hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, da sậm, xuất hiện những vết loét màu đỏ. Những vết loét lan rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Vết loét ăn sâu vào đến xương, thịt thối rữa và cá bị chết. Để phòng bệnh, người nuôi cá nên định kỳ trộn Vitamin C liều lượng 5 - 10 gr/100 kg cá nuôi. Thả lá xoan, dây giác vào ao, bè. Còn trị bệnh thì dùng vôi bột liều lượng 5 - 7 kg/100 m3 hòa tan lấy nước tạt đều ao, bè hoặc sulfat đồng liều lượng 1 kg/2.000 - 3.000 m3. Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn: Oxytetracyline 2 gr + Sulfathyozon 5 gr/100 kg cá nuôi từ 5 - 7 ngày. Vitamin C 2 gr/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 5 - 7 ngày.
Bệnh trắng da: Thời kỳ đầu đuôi cá xuất hiện vết trắng lan dần về phía đầu, đến vây lưng và vây hậu môn, cá mất nhớt và bong da, bong vẩy. Bệnh nặng, cá treo đuôi, cắm đầu xuống và chết trong thời gian ngắn. Nên hòa tan vôi bột: 5 - 10 kg/100 m3, tạt đều ao 2 - 3 lần/tuần. Còn khi cá đã mắc bệnh này, bắt cá bệnh tắm thuốc Streptomycine 25 mg/lit nước, tắm trong 30 phút. Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn: Sulfadimidine 3 - 5 gr/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5 - 7 ngày. Trộn vitamin C cho ăn liên tục 5 - 7 ngày.
Bệnh nấm thủy mi: Da có những đốm trắng, trên đó có những sợi nấm nhỏ mềm, tua tủa như bông gòn, dùng sulfat đồng 1 kg/2.000 - 3.000 m3 nước, xử lý liên tục 2 - 3 lần/tuần.
Bệnh sán lá đơn chủ: Cá thường nổi đầu nơi có nước chảy. Phải thường xuyên thay nước ao, tránh thức ăn thừa gây bẩn môi trường. Dùng muối liều lượng 0,5 - 1 kg/100 lít nước đối với cá nhỏ, 3 - 4 kg/100 lít nước đối với cá lớn, tắm trong 10 - 15 phút. Dùng thuốc tím 1 - 2 gr/m3 tạt đều ao, 3 lần/tuần. Hoặc dùng lá xoan 0,3 - 0,5 lá xoan bó lại treo ở đầu bè hoặc đầu cống cấp nước vào ao.
Bệnh xuất huyết: Cá bơi lội không bình thường, da chuyển sang màu sẫm, mắt mờ đục, sưng phù và có thể bị mù, xuất huyết ở các vây, da, bụng, quanh miệng, nắp mang, có thể bị chảy máu một số nơi, cơ thể bị tuột nhớt. Cách điều trị: trộn kháng sinh Doxycyline 0,5 - 1 gr/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5 - 7 ngày, Kanamycine: 50 mg/kg thể trọng cá, liên tục 5 - 10 ngày, nhóm Sulfamid: 150 - 200 mg/kg thể trọng cá, liên tục 5 - 10 ngày, bổ sung Vitamin C.
Related news
Vùng đất duyên hải tỉnh Nghệ An chủ yếu là đất pha cát bạc màu, giá trị kinh tế khi trồng cây nông nghiệp rất thấp. Những năm gần đây, trên chính vùng đất ấy đã cho thu nhập rất cao (1 - 1,5 triệu đồng/m2) từ nghề nuôi cá lóc đen cao sản.
Trong những năm gần đây, phong trào nuôi cá lóc phát triển mạnh. Tập trung nhiều ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh. Riêng ở Bến Tre, phong trào này có thực hiện nhưng còn nhỏ lẻ, rất ít. Nguyên nhân chính là khâu cung ứng thức ăn cho cá, chủ yếu là nguồn cá tạp nên rất bấp bênh, phụ thuộc vào khai thác tự nhiên, số lượng và giá cả không ổn định...
Vùng đất duyên hải tỉnh Nghệ An chủ yếu là đất pha cát bạc màu, giá trị kinh tế khi trồng cây nông nghiệp rất thấp. Những năm gần đây, trên chính vùng đất ấy đã cho thu nhập rất cao (1 - 1,5 triệu đồng/m2) từ nghề nuôi cá lóc đen cao sản.
Cá bố mẹ được chọn từ các ao nuôi thương phẩm hoặc các ao nuôi cá hậu bị của trại giống. Chọn cá bố mẹ khỏe mạnh, không bị trầy xước, có trọng lượng khoảng 600 – 1.200 g. Cá có trọng lượng khoảng 700 g có sức sinh sản tốt nhất.
Nuôi 10 ao cá lóc bằng phương pháp lót bạt trên cát, mỗi năm trừ chi phí đem về lãi ròng 500 triệu đồng.