Nuôi Tôm Trên Ruộng Lúa - Mô Hình Kinh Tế Bền Vững Tại Cồn Đất Xã An Hiệp

Được sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, trong vụ lúa trung vụ năm 2011, hộ anh Huỳnh Văn Sên ngụ tại ấp An Bình, xã An Hiệp, huyện Ba Tri đã thực hiện mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa.
Thành công bước đầu của mô hình đã mở ra cho vùng đất cù lao bốn bề sông nước này một triển vọng mới về phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.
Mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa của hộ anh Huỳnh Văn Sên có diện tích 5.000m2. Từ diện tích này, anh đã đào ao xung quanh và mương chính giữa với diện tích mặt nước khoảng 2.000m2. phần đất còn lại được giữ để trồng lúa. Với cách làm này đã cải tạo, giúp đất giảm phèn đáng kể. Bên cạnh đó còn tạo sự thông thoáng, giúp tôm sinh trưởng tốt.
Để xử lý ao nuôi cũng như khử khuẩn, phòng mầm bệnh, anh Sên rãi vôi và phơi đất trong thời gian 10 ngày rồi mới thả tôm giống. Với diện tích mặt nước 2.000m2, anh thả 13.000 con giống. Trung bình, mật độ tốt nhất thả nuôi tôm càng xanh là từ 3 đến 5 con/1m2. Sau thời gian thả tôm giống 45 ngày, anh đã cấy lúa trên diện tích còn lại.
Hiện diện tích lúa trong mô hình của hộ anh Huỳnh Văn Sên đang trong giai đoạn trổ và ngậm sữa, hứa hẹn cho năng suất cao. Trong quá trình canh tác lúa, anh được hướng dẫn và áp dụng phương pháp IPM. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng phải đảm bảo an toàn cho tôm.
Sự phối hợp giữa việc nuôi tôm càng xanh với trồng lúa đã mang lại hiệu quả rất lớn. Lúa ít bị sâu bệnh hại. Tôm càng xanh phát triển mạnh, tỷ lệ sống cao. Đồng thời giảm đáng kể chi phí thức ăn cho tôm. Qua 4 tháng thả nuôi, tỷ lệ sống của tôm trong mô hình trên 70%. Kích cỡ tôm hiện đạt khoảng 80 con/kg.
Thức ăn chủ yếu của tôm là cá tươi, cá phân, thức ăn công nghiệp và các phụ phẩm khác như: khoai, mì, dừa,…Đây là nguồn thức ăn có sẵn tại địa phương. Ước tính tổng chi phí thực hiện mô hình khoảng 12 triệu đồng. Trong đó chương trình FSPS II Đan Mạch hỗ trợ 3 triệu đồng gồm 2 triệu đồng con giống và 1 triệu đồng thức ăn.
Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa của hộ anh Huỳnh Văn Sên đạt yêu cầu. Tốc độ tôm lớn và tỷ lệ sống đạt khá. Nếu đảm bảo áp dụng đúng kỹ thuật cùng với tốc độ phát triển như hiện nay, sau thời gian nuôi 8 tháng, tôm có thể đạt trọng lượng từ 100gam/con.
Cũng theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre, trong quá trình nuôi cần chú ý theo dõi và phòng bệnh đóng rong và bệnh đen mang. Đây là hai bệnh thường gặp và khá nguy hiểm có thể ảnh hưởng lớn đến sản lượng cũng như chất lượng tôm. Để phòng bệnh này, cần chú ý đến môi trường nước.
Mực nước trên ruộng cần phải theo mực nước cho lúa là từ 0,2-0,3m. Hàng tuần phải thay nước với tỷ lệ khoảng 10% lượng nước hiện hữu. Tốt nhất là không nên dùng thuốc trừ sâu cho lúa trong khi nuôi tôm. Nếu dùng thuốc thì phải tháo nước từ từ trong vài ngày để tôm rút xuống ao, mương. Sau khi dùng thuốc từ 1 đến 2 tuần thì cho nước vào để tôm lên ruộng.
Khi thu hoạch lúa thì tháo nước cho tôm xuống mương và sau khi thu hoạch lúa thì lại cho nước vào thật nhiều để tôm lên ruộng ăn thức ăn tự nhiên. Giai đoạn này cần thường xuyên thay nước để tránh nước bị thối do gốc rạ phân hủy gây ra.
Cùng với việc thực hiện mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa tại hộ anh Huỳnh Văn Sên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre còn phối hợp Hội Nông dân xã An Hiệp huyện Ba Tri tổ chức tập huấn kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa cho 20 hộ nông dân ấp An Bình.
Tại lớp tập huấn này, nông dân được hướng dẫn kỹ thuật làm đất, chọn vị trí, phương pháp xử lý ao nuôi; Chọn giống và kỹ thuật thả giống; Kỹ thuật chăm sóc tôm ở từng giai đoạn; Phương pháp quản lý, phòng trị một số dịch bệnh trên tôm.
Cù lao Đất, xã An Hiệp huyện Ba Tri được bồi đấp và bao bọc bởi đoạn cuối nguồn của sông Hàm Luông. Đất ở đây bị nhiễm phèn nặng. Trong 6 tháng mùa mưa, vùng đất này mới có nước ngọt để canh tác lúa. Riêng 6 tháng mùa khô thì nhiễm mặn.
Chính vì vậy, nông dân ở đây chỉ có thể sản xuất được lúa 1 vụ. Thời gian qua, đã có nhiều hộ ở đây thử nghiệm nuôi tôm càng trên ruộng lúa.
Tuy nhiên, do chưa nắm bắt kỹ thuật nên hiệu quả đạt không cao. Hiệu quả bước đầu của mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa của hộ anh Huỳnh Văn Sên thực sự mở ra triển vọng mới cho vùng đất này. Đây cũng là mô hình kinh tế bền vững cần được nhân rộng ở nhiều địa phương.
Related news

Tổ hợp tác (THT) trồng rau an toàn (RAT) ấp Đai Tèn, xã Lương Hòa A, huyện Châu Thành (Trà Vinh) thành lập năm 2010, có 56 thành viên tham gia, trên diện tích 12,5ha. THT chuyên canh tác các loại rau màu như: khổ qua, dưa leo, bầu, bí, ớt chỉ thiên… hàng năm đem về lợi nhuận cho các thành viên khoảng 200 triệu đồng/ha, từ đó đời sống kinh tế của các thành viên ngày càng ổn định.

Từ sau ngày hòa bình, nhiều gia đình ở vùng đồng bằng xã Hải Phú đã cơm đùm mắm muối phạt rừng tìm về K4 để khai phá. Ròng rã mấy chục năm bám trụ, cải tạo từng mét đất đầy đá sỏi, họ khắc trong mình niềm tin mãnh liệt rằng rồi đất sẽ hồi sinh… Và bây giờ đất K4 khắc nghiệt đã và đang mang lại những mùa no ấm. Dẫn chúng tôi thăm K4- được xem là vùng trọng điểm trồng cam ở Quảng Trị, ông Nguyễn Nhạc, Phó Chủ tịch UBND xã Hải Phú cho biết: “Chính sự cần cù, nhẫn nại của những người nông dân ở vùng đồi K4 đã làm đất hồi sinh, cho quả ngọt lành. Anh nhìn đấy, toàn bộ khu triền đồi bên khe suối này giờ đã là bạt ngàn cây cam, đồi chè và nhiều loại cây ăn quả, hoa màu khác… Người lạc quan nhất cũng khó có thể tưởng tượng được giờ đây vùng đồi K4 đã trở nên trù phú thế này”.

Mới 28 tuổi nhưng anh Vũ Ngọc Tuyến ở thôn Cá Nội, xã Hoàng Thắng (Văn Yên - Yên Bái) đã là chủ của một cơ sở sản xuất nấm sò và mộc nhĩ. Vụ đông xuân năm 2012 - 2013, gia đình anh đã thu lãi trên 60 triệu đồng và tạo việc làm thường xuyên cho 7 lao động với mức lương từ 2,5 đến 3 triệu đồng/người/tháng.

Gần đây, mô hình trồng cải thìa, cải rổ ở xã Khánh Hòa (Châu Phú - An Giang) phát triển mạnh, đã mang lại thu nhập cho nhiều hộ nông dân địa phương.

Những dấu hiệu của bệnh tôm rất đa dạng, chúng xuất hiện nhiều trên cơ thể con tôm, có thể là biểu hiện của một hay nhiều tác nhân gây bệnh. Vì thế, khi chẩn đoán bệnh, cần nhận định được tác nhân chủ yếu gây bệnh để có hướng xử lý đúng đắn.