Home / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nuôi Dê Hướng Phát Triển Kinh Tế Phù Hợp Với Địa Phương Miền Núi

Nuôi Dê Hướng Phát Triển Kinh Tế Phù Hợp Với Địa Phương Miền Núi
Publish date: Tuesday. January 7th, 2014

Nghề nuôi dê ở tỉnh Bắc Kạn đã có từ lâu nhưng chủ yếu quy mô nhỏ lẻ, phương thức chăn thả quảng canh với giống dê cỏ địa phương năng suất thấp, trong khi điều kiện để mở rộng quy mô chăn nuôi dê với số lượng lớn hoàn toàn có thể. Mặc dù nhu cầu thị trường dê thương phẩm hiện nay rất cần nhưng đàn dê của tỉnh đang có chiều hướng giảm dần, năm 2010 Bắc Kạn có hơn 40 nghìn con thì đến năm 2013 chỉ còn gần 9 nghìn con.

Nguyên nhân dẫn đến đàn dê giảm là do các giống dê địa phương cho năng suất thấp, con đẻ ra dễ chết, thiếu thức ăn, bà con không biết áp dụng kỹ thuật để nghề chăn nuôi dê đem lại hiệu quả kinh tế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến dê non đẻ ra thường chết, thoái hóa giống, tầm vóc bé, khối lượng nhỏ, lớn chậm, sản lượng thịt không cao là do giao phối cận huyết(con đực giao phối với các con là anh em trong cùng một đàn).

Trước thực trạng đó nhằm giúp người nông dân khôi phục được nghề nuôi dê góp phần tạo thu nhập xóa đói giảm nghèo các nhà khoa học của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã xây dựng và triển khai dự án “Nghiên cứu cải tạo giống dê tại Bắc Kạn”.

Phương pháp tiến hành đó là sẽ chọn lọc đàn dê địa phương tạo ra đàn cái nền có khả năng sinh sản cao, đồng thời nhập về một số giống dê đực từ địa phương khác và dê đực lai và có nguồn gốc nước ngoài cho phối với đàn dê địa phương, từ đó giảm cận huyết, cải tạo được tầm vóc, khối lượng đàn dê con sinh ra, mục tiêu tăng 10-20% năng suất so với giống dê địa phương. Dự án còn trồng thử nghiệm cây chè khổng lồ. Đây là nguồn thức ăn dồi dào cho đàn dê-một vấn đề hết sức khó khăn cho người chăn nuôi dê nhất là vào mùa khô, giá rét.

Sau 3 năm triển khai dự án tại 4 xã gồm Nông Thượng, Huyền Tụng, Xuất Hóa (thị xã Bắc Kạn) và Hòa Mục (Chợ Mới), có thể đánh giá sơ bộ: dự án đã đem lại kết quả khá tốt. Dự án đã xây dựng được 8 mô hình nuôi dê địa phương thuần (mua dê đực từ nơi khác ) ,10 mô hình nuôi dê lai và 12 hộ gia đình nuôi dê địa phương truyền thống làm đối chứng.

Đến nay đàn dê mô hình đã đẻ được 320 dê con trong đó có 203 con dê lai và 117 dê địa phương. Con lai sinh ra to, trọng lượng cao hơn dê địa phương, sức chống chịu với điều kiện tự nhiên của dê lai tốt không kém dê địa phương nên hoàn toàn phù hợp có thể nhân rộng mô hình. Nếu như trọng lượng của dê địa phương lúc 9 tháng tuổi trung bình là 14,5kg thì dê địa phương làm tươi máu (lai với dê đực từ nơi khác) có trọng lượng là 16,16kg và dê lai 3 máu là 23,8kg.

Như vậy dê lai 3 máu có trọng lượng lớn hơn cả. Đối với mô hình triển khai ở 3 xã của thị xã Bắc Kạn trọng lượng dê còn cao hơn, dê địa phương truyền thống là 15kg, dê địa phương làm tươi máu là 17kg và dê lai 3 máu là 24,8kg.

Một trong những vấn đề cần lưu ý khi chăm sóc dê sau đẻ đó là đa phần dê con bị chết do rơi vào chỗ đọng nước hay đống phân ướt, khi phát hiện thì dê đã bị ngạt thở chết. Người chăn nuôi cần ghep ổ đối với những dê cái đẻ sinh ba hoặc trực một vài ngày đầu cho dê con bú nhằm tăng tỷ lệ nuôi sống cũng như khả năng sinh trưởng sau này của dê con.

Dê chỉ có 2 vú nếu dê mẹ đẻ từ 3 con trở lên rất khó để tất cả dê con cùng được bú nên tỷ lệ chết đến cai sữa rất cao, bởi vậy người chăn nuôi cần có kế hoạch ghép ổ để những dê mẹ đẻ một con cùng thời điểm nuôi hộ trong một vài ngày sẽ quen.

Trên đàn dê thường xuất hiện các bệnh viêm phổi, ghẻ, viêm loét miệng, lứa tuổi mắc chủ yếu ở giai đoạn 1-3 tháng tuổi, nguyên nhân chính là do sàn chuồng không được thoáng mát, còn đọng phân. Vệ sinh chuồng trại không được thường xuyên, lưu cữu nhiều phân, không có biện pháp xử lý. Dê chết còn do ngộ độc ăn phải túi ni lông hoặc chăn thả dê chạy vào nương rẫy ăn cỏ trong khi nương rẫy vừa phun thuốc trừ sâu…

Gia đình ông Nguyễn Văn Lai, Bế Lãng Hải ở xã Nông Thượng và Hà Văn Tình ở xã Hòa Mục huyện Chợ Mới là những hộ tiêu biểu tham gia mô hình cải tạo đàn dê. Từ con đực của dự án và con cái của gia đình đến nay đàn dê của ông Lai đã nhân lên 40 con, khối lượng dê lai đạt từ 24-28kg lúc 6-7 tháng tuổi. Gia đình đã bán 25 con thu về trên 50 triệu đồng.

Theo ông cây chè khổng lồ lần đầu tiên được trồng rất phù hợp, vạt đồi chè lúc nào cũng xanh tốt, nhờ nó mà đàn dê thậm chí cả đàn trâu của gia đình ông lúc nào cũng đủ thức ăn xanh ngay cả những ngày mưa rét.

Ngoài ra gia đình còn được cung cấp giống cỏ Gine, dê rất thích ăn, gia đình sẽ nhân giống và giúp đỡ các hộ dân khác nếu có nhu cầu. Gia đình ông Tình ở Hòa Mục cho biết đàn dê lai của ông hiện nay có 30 con, dê lai to hơn dê địa phương mà trước đây ông đã từng nuôi từ 20-25%, khả năng theo đàn tìm kiếm thức ăn và sức chống bệnh của dê lai cũng không thua kém giống dê địa phương.

Ông Hải ở Nông Thượng đã bán được 27 con trong số 30 con dê được tạo ra từ giống đực (làm tươi máu) do dự án mua từ địa phương khác thu về 40 triệu đồng, đây là khoản thu nhập đáng kể cho gia đình. Gia đình ông tiếp tục mở rộng quy mô chăn nuôi dê bởi thấy đây là một nghề khá phù hợp với khả năng của mình.

Nhu cầu thị trường cũng như giá dê thịt luôn tăng trong những năm gần đây, năm 2011 giá dê chỉ 80-85 nghìn đồng/kg thì đến nay đã lên tới 125-130 nghìn đồng/kg. Tiềm năng, lợi thế đất đai của tỉnh để phát triển nghề nuôi dê rất thuận lợi nhất là việc cải tạo đàn dê cũng như đưa vào trồng các loại cỏ chất lượng cao đã được thực hiện thành công, đây là hướng phát triển kinh tế cần được nhân rộng ở các địa phương.


Related news

Cánh Đồng Vàng Bình Phước Xuân (An Giang) Cánh Đồng Vàng Bình Phước Xuân (An Giang)

Giai đoạn 2009-2012, xã Bình Phước Xuân (Chợ Mới - An Giang) chuyển đổi 177 héc-ta đất lúa sang trồng rau màu và lập vườn cây ăn trái, đưa chỉ số diện tích rau màu tăng gấp đôi và giá trị sử dụng vòng quay của đất lên 4,13 lần/năm, góp phần đảm bảo thu nhập bình quân đạt trên 45 triệu đồng/người/năm.

Thursday. June 13th, 2013
Quy Hoạch, Nâng Cấp Cơ Sở Vùng Nuôi Tôm Ở Quảng Bình Quy Hoạch, Nâng Cấp Cơ Sở Vùng Nuôi Tôm Ở Quảng Bình

Năm 2012, sản xuất nuôi trồng thủy sản gặp nhiều khó khăn, nhất là nuôi tôm nước lợ, làm ảnh hưởng đến thu nhập và hiệu quả kinh tế của người nuôi. Tổng diện tích thả nuôi toàn tỉnh là 5.052 ha đạt 98% so KH (riêng diện tích nuôi mặn lợ 1.532 ha); sản lượng nuôi thủy sản đạt 9.510 tấn (nuôi mặn lợ sản lượng 4.300 tấn).

Monday. March 11th, 2013
Thời Cơ Và Thách Thức - Nuôi Tôm Thẻ Hay Tôm Sú? Thời Cơ Và Thách Thức - Nuôi Tôm Thẻ Hay Tôm Sú?

Chưa năm nào người nuôi tôm lại bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như năm nay. Chọn nuôi con tôm thẻ hay con tôm sú? Đó là vấn đề thật sự làm nhiều người đau đầu. Nuôi tôm sú năm qua lỗ nhiều hơn lãi, còn nuôi tôm thẻ chân trắng thì quá liều lĩnh, vì đây là đối tượng nuôi mới và mô hình này đòi hỏi vốn đầu tư rất nhiều.

Saturday. March 16th, 2013
Hướng Dẫn Biện Pháp Diệt Chuột Hiệu Quả Hướng Dẫn Biện Pháp Diệt Chuột Hiệu Quả

Ngày 12.6, Hội ND huyện Hòa Vang tổ chức tập huấn cách bẫy, bắt chuột hiệu quả trên đồng ruộng với loại bẫy cải tiến cho 150 cán bộ cơ sở hội.

Thursday. June 13th, 2013
Mô Hình Tổ Hợp Tác Trong Chăn Nuôi Vịt Thịt Năng Suất Cao Theo Hướng An Toàn Sinh Học Mô Hình Tổ Hợp Tác Trong Chăn Nuôi Vịt Thịt Năng Suất Cao Theo Hướng An Toàn Sinh Học

Anh Phan Thanh Bình Ấp Mỹ Á, xã Núi Voi, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang thành lập trang trại chăn nuôi vịt từ năm 2003 trên diện tích khu đất 20.000 m2. Trong đó: có 2 ao thả vịt, với diện tích mặt nước ao là 12.000 m2, còn lại là diện tích chuồng trại, sân chơi cho vịt và bờ rào.

Thursday. June 13th, 2013