Ngọt thơm hương vị trái bo bo

Theo lời người đồng bào K’dong ở huyện Sơn Tây, một trong những nơi hiện vẫn còn trồng loại cây này thì cách đây hàng chục năm về trước, bo bo được trồng khá phổ biến; thời gian trồng từ khoảng tháng 5-6.
Cũng như nhiều loại cây khác, bo bo được người dân để phát triển tự nhiên và cho leo bò trên thân cây to, bụi rậm trên nương, rẫy, quanh nhà.
Bo bo mà người dân thu hoạch.
Qua quan sát thì cây bo bo thuộc họ dây leo và lá khá giống bí đao.
Kích cỡ gốc to bằng ngón chân cái người lớn, nhưng càng về phía ngọn thì nhỏ dần.
Trái bo bo hình tròn và to như trái dưa hấu, nhưng vỏ thì màu xanh khi còn nhỏ, về già ngả sang màu trắng đục và được bao phủ bởi một lớp phấn.
Ông Đinh Kia (42 tuổi), ở xã Sơn Tân, huyện Sơn Tây cho biết: Vòng đời của cây bo bo khoảng 3 tháng, với số lượng trái bình quân từ 10-15 trái/dây và nặng từ 3-10 kg/trái.
Trái bo bo lớn rất nhanh, với thời gian từ khi mới ra to bằng trái cau đến khi đạt trọng lượng 3 kg trở lên chỉ khoảng 3-4 tuần.
Không chỉ phần thịt, ruột và hạt bên trong mà công dụng phổ biến nhất của trái bo bo cũng giống như bí đao là dùng để nấu canh thịt.
Tuy nhiên hương vị của canh bo bo khác biệt và rất ngon, với mùi thơm nhẹ như dưa hấu và ngọt thanh.
Ngoài ra theo một số người thì phần thịt của bo bo nếu thái thành lát nhỏ để bỏ vô dầm với mắm cái (mắm đục) ăn rất ngon và giòn mà không bao giờ bị nhũn, mềm rửa như đu đủ, thơm...
Nhiều già làng ở huyện Sơn Hà, Sơn Tây bày tỏ:
Dù được xem là một sản vật của người dân nơi đây, thế nhưng do ít người biết nên đại đa số bo bo thu hoạch được, người dân thường để sử dụng cho gia đình và cho biếu người thân, bà con trong vùng chứ ít khi mang đi bán như những loại nông sản khác.
Và giá bán cũng khá rẻ, chỉ từ 15.000-30.000 đồng/quả.
Nhiều năm gần đây do các loại nông sản nói chung từ miền xuôi mang lên dồi dào và đến tận các bản làng nên người dân ít trồng, dẫn đến bo bo hiếm dần.
Thiết nghĩ các cấp, ngành địa phương cần bảo tồn, phát triển và giới thiệu sản vật này đến với rộng rãi người tiêu dùng của tỉnh, góp phần nâng thu nhập cho người dân miền núi.
Related news

Với mong muốn giành được mùa vàng bội thu, khi không khí xuân đang tràn ngập trên khắp đường làng, ngõ xóm và trong mỗi gia đình thì trên khắp các cánh đồng những ngày cuối năm Giáp Ngọ, nhiều bà con nông dân trong tỉnh vẫn nô nức “trảy hội” xuống đồng. Nơi thì khẩn trương thu hoạch nốt diện tích cây vụ đông, nơi thì tích cực san phẳng ruộng, chăm sóc mạ, nơi lại đang khẩn trương gieo cấy lúa xuân. Không khí lao động thật nhộn nhịp.

Thời gian qua, nhiều người nông dân (ND) ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã bỏ công nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều loại nông sản “độc”, lạ để bán trong dịp Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, những “nhà khoa học chân đất” này đã gặp không ít trở ngại về bản quyền.

Tại hội thảo, một số nhà khoa học đánh giá cao dự án phát triển cây mắc ca tại Tây Nguyên song cho rằng cần phải hết sức “bình tĩnh” khi phát triển loại cây này. Theo giáo sư Hoàng Hòe, người đầu tiên đề xuất trồng cây mắc ca, thế giới đã phát triển cây mắc ca trong 50 năm qua với 10 nước tham gia nhưng đến nay, diện tích chỉ đạt khoảng 80.000 ha.

Những ngày cuối năm, nông dân làng rau Trà Quế (xã Cẩm Hà, TP. Hội An, Quảng Nam) tất bật chăm bón rau màu chuẩn bị thu hoạch cung ứng cho thị trường vào dịp tết. Trung bình mỗi ngày làng rau này xuất bán 2 tấn rau các loại cho các chợ và siêu thị lớn tại miền Trung.

Bộ NNPTNT và ngành chức năng đã chính thức cho phép đưa cây trồng biến đổi gen vào sản xuất tại Việt Nam bắt đầu từ năm 2015. Đây là cơ hội mới cho ngành nông nghiệp, nông dân tăng sản lượng, hạn chế sâu bệnh trên các cây trồng, đặc biệt là ngô. Từ số báo này, trên số ra thứ 5 hàng tuần, Báo NTNN mở chuyên mục “Nông dân với cây trồng biến đối gen” nhằm cung cấp mọi khía cạnh về loại cây này đến với bạn đọc, bà con nông dân.