Nghiên cứu, ứng dụng thành công nhiều mô hình phục vụ nuôi trồng thủy sản

Qua đó góp phần giải quyết những khó khăn, thách thức do thực tiễn sản xuất đặt ra và hình thành nên những quy trình, mô hình sản xuất mới, giúp nông dân giảm rủi ro, tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hướng đến hiệu quả, an toàn
Từ đầu năm đến nay, Sở KH-CN đã tổ chức nghiệm thu nhiều đề tài, dự án như:
Dự án Sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá sặc rằn trong ao và trong ruộng lúa kết hợp tại xã Châu Hưng A (huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu); dự án Thực nghiệm mô hình sản xuất 2 vụ lúa - 1 vụ tôm trong vùng lúa - tôm có độ mặn từ 4 - 6‰ ở huyện Hồng Dân;
Xây dựng mô hình nuôi bồ câu Pháp lai sinh sản tại xã Vĩnh Thanh (huyện Phước Long); Thử nghiệm nuôi ếch Thái Lan trong vèo kết hợp thả cá trê vàng trong ao đất tại xã Hưng Phú (huyện Phước Long);
Thử nghiệm nuôi cá lóc kết hợp trồng năn bộp ở xã Phong Tân (TX. Giá Rai)...
Những đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng mang tính thiết thực nêu trên đã thật sự mở ra nhiều hướng đi mới cho người nông dân.
Trong đó, nổi bật là đề tài Nghiên cứu ứng dụng vi sinh vật và một số giải pháp để cải tiến quy trình nuôi tôm sú công nghiệp ở Bạc Liêu” của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Trúc Anh (gọi tắt là Công ty Trúc Anh - xã Vĩnh Trạch, TP. Bạc Liêu) được Hội đồng KH-CN tỉnh xếp loại xuất sắc.
Theo ông Lê Anh Xuân, Giám đốc Công ty Trúc Anh:
Tôm nuôi bệnh chủ yếu do môi trường nuôi bị ô nhiễm, dẫn đến các bệnh ở tôm có nguồn gốc vi khuẩn hoặc vi-rút gây bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng gây thiệt hại lớn. Để hạn chế dịch bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường nuôi tôm bằng chế phẩm sinh học là xu hướng chung mà nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Do vậy, đề tài Nghiên cứu ứng dụng công nghệ vi sinh vật và một số giải pháp để cải tiến quy trình nuôi tôm sú công nghiệp ở Bạc Liêu với mục tiêu:
Phân lập và tuyển chọn chủng giống vi sinh và chọn được bộ chủng giống vi sinh vật hữu hiệu, có hoạt tính đối kháng với một số loài vi khuẩn gây bệnh chủ yếu ở tôm sú nuôi từ đường tiêu hóa của tôm nuôi và từ bùn đáy ao.
Đồng thời đưa ra các biện pháp hỗ trợ để xây dựng quy trình nuôi tôm an toàn, hiệu quả giúp bà con nông dân giảm rủi ro, tăng lợi nhuận và tạo ra sản phẩm tôm sạch.
Qua nghiên cứu, Công ty Trúc Anh đã phân lập hơn 40 chủng vi khuẩn từ bùn ao nuôi tôm, ống tiêu hóa của tôm và chế phẩm sinh học.
Trong đó, đã lựa chọn 6 chủng vi khuẩn probiotic gồm 3 chủng vi khuẩn thuộc chi Bacillus (D11, D18, M5) và 3 chủng thuộc chi Lactobacillus (AX1, AX3, AX4) có hoạt tính enzym cao, kháng khuẩn mạnh làm bộ chủng giống để sản xuất chế phẩm sinh học nuôi tôm.
Hiện đã định tên đến loài 6 chủng giống vi khuẩn để sản xuất chế phẩm sinh học.
Trong khi đó, Công ty cũng đã sử dụng kỹ thuật DGGE phát hiện có 8 chủng vi khuẩn không phân lập và nuôi cấy được có khả năng gây bệnh ở tôm sú nuôi công nghiệp.
Đông thời nghiên cứu hoàn thiện chế phẩm sinh học (CPSH) với 2 dạng sản phẩm:
CPSH xử lý môi trường TA - GOLD SUPER và CPSH trộn vào thức ăn nuôi tôm TA-FEEDMIN.
Qua thử nghiệm CPSH trong nuôi tôm sú công nghiệp cho thấy, tỷ lệ sống của tôm sú ở các ao thí nghiệm tăng 5,45%, sản lượng tôm thu hoạch tăng so với đối chứng 13,74%.
Riêng đề tài nghiên cứu các biện pháp hỗ trợ để xây dựng quy trình nuôi tôm an toàn, hiệu quả cao cũng mang lại nhiều kết quả tích cực.
Như sử dụng biện pháp cải tạo ao nuôi tôm bằng vôi với liều lượng 300kg/1.000m2 đã làm giảm đáng kể các mầm bệnh trong ao nuôi.
Hay sử dụng bể lọc sinh học trong ao nuôi tôm cho thấy nước ao nuôi tôm sau khi được lọc đã giảm đáng kể các chất ô nhiễm: COD giảm 95%, BOD giảm 85 - 90%, hàm lượng ôxy hòa tan tăng cao.
Tôm nuôi tăng trưởng so với đối chứng 12 - 15%. Sử dụng CPSH trong nuôi tôm thâm canh làm tăng tỷ lệ sống, giảm khả năng bị bệnh của tôm nuôi. Tôm nuôi sinh trưởng tốt hơn, năng suất thu hoặc tôm tăng 13,74% so với đối chứng.
Kỹ sư Long Văn Nghĩa nghiên cứu thành công quy trình sản xuất nhân tạo nghêu giống.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh
Cùng với xây dựng mô hình sản xuất hiệu quả, an toàn cho con tôm, dự án “Xây dựng mô hình sản xuất nhân tạo nghêu giống ở tỉnh Bạc Liêu” của kỹ sư Long Văn Nghĩa (xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình) được đánh giá là đề tài góp phần khai thác có hiệu quả nguồn lợi thủy sản gần bờ, bảo vệ môi trường, đặc biệt là phát triển mô hình nuôi nhuyễn thể.
Thực tiễn cho thấy, nuôi nhuyễn thể đã trở thành lĩnh vực sản xuất lớn, có hiệu quả cao và đầy triển vọng của ngành nuôi trồng thủy sản thế giới.
Trong số 20 đối tượng quan trọng nhất của ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay thì có 6 loài là nhuyễn thể, trong đó có 3 loài như: nghêu, sò và hào đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm.
Nghề nuôi nhuyễn thể sinh lợi cao vì tận dụng được cả diện tích bãi triều lẫn độ sâu của các tầng nước, con giống tự nhiên, thức ăn tự nhiên, quản lý chăm sóc ít tốn công và sản lượng cao (trung bình là 112 tấn/ha).
Nhuyễn thể - bản thân chúng là các “máy lọc sinh học” nên vừa làm sạch môi trường vừa không gây ô nhiễm môi trường. Nhiều loài nhuyễn thể là các thực phẩm rất quý giá được thị trường ưa chuộng, thuận lợi về đầu ra và giá cả luôn ở mức cao như: nghêu, sò huyết, hào...
Nuôi nhuyễn thể đang phát triển rất nhanh ở nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, tình trạng khai thác con giống tự nhiên quá mức, kém hiệu quả làm cạn kiệt nguồn lợi và tác động xấu đến môi trường.
Thêm vào đó, tình trạng khan hiếm con giống, nhất là con nghêu diễn ra ngày càng gay gắt bởi nhu cầu nghêu giống thả nuôi ngày càng lớn.
Mỗi năm các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cần tới hàng tỷ con nghêu giống phục vụ nuôi trồng và phần lớn phải bị phụ thuộc vào tự nhiên nên khiến cho số lượng, chất lượng và giá thu mua không ổn định, gây khó cho sản xuất.
Để góp phần tháo gỡ những khó khăn này, việc nghiên cứu xây dựng mô hình sản xuất nhân tạo nghêu giống là rất cần thiết, nhằm chủ động về con giống, hạn chế khai thác hủy diệt nguồn lợi và phát triển thêm nghề nuôi trồng cho lợi nhuận cao, tận dụng được diện tích bờ biển bị bỏ hoang lâu nay và không chỉ cho con nghêu mà còn là nhiều loại nhuyễn thể khác.
Qua thời gian thực hiện dự án, bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực, tỷ lệ nghêu sống tăng cao, hình thành nên quy trình gây nuôi, mở ra hướng đi mới trong nghề nuôi nghêu ở Bạc Liêu nói riêng và các loại nhuyễn thể khác nói chung...
Với việc nghiên cứu, ứng dụng thành công và đề xuất nhiều mô hình sản xuất mới, Sở KH-CN đã góp phần quan trọng trong thực hiện đề án “Tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp” của tỉnh.
Đồng thời đưa KH-CN tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo tiền đề cho việc nhân rộng, phát triển các mô hình sản xuất hiệu quả.
Related news

Trước thực trạng xuất khẩu rau quả của VN liên tục tăng trong những năm gần đây, đạt kim ngạch khoảng 1,5 tỉ USD năm 2014, nhưng có đến 80% giống rau đang phải nhập khẩu, TS Nguyễn Quốc Vọng, Việt kiều Úc, đang tích cực nghiên cứu và phát triển các giống rau, hoa để dần giảm sự phụ thuộc nguồn giống nước ngoài.

Những ngày này, gia đình ông Nguyễn Thanh Sơn, thôn Ngò 1, xã Đồng Kỳ như vui hơn. Mấy năm trước, không may ông Sơn mắc bệnh, sức khỏe suy giảm, gánh nặng cơm áo dồn cả lên vai người vợ tảo tần. Cuộc sống gia đình vì thế càng khó khăn. Ðược chính quyền địa phương tạo điều kiện vay vốn phát triển kinh tế, hướng dẫn tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, ngoài chăn nuôi bò sinh sản, vợ chồng ông tận dụng diện tích ruộng sẵn có luân canh gối vụ lúa, củ đậu, khoai tây…

Trong đó, huyện Tân Yên đạt 100% kế hoạch; Hiệp Hòa, Yên Dũng, Lạng Giang, TP Bắc Giang gần hoàn thành. Hiện nay, ngành nông nghiệp tiếp tục đôn đốc các huyện miền xuôi khuyến cáo nông dân tập trung gieo cấy diện tích còn lại xong trước ngày 10-3; chăm sóc trà lúa đã cấy, tránh những tác động tiêu cực của thời tiết khi lúa trỗ như gió tây nóng, lũ tiểu mãn... Riêng huyện Lục Ngạn, Sơn Động sẽ hoàn thành gieo cấy trong tháng 3.

Sản lượng tôm giống hàng năm do doanh nghiệp sản xuất lên đến hàng tỷ post, cung cấp nhu cầu nuôi tôm thương phẩm cho nhiều thị trường trọng điểm trên cả nước… Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch Lê Tiến Phương đánh giá cao kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty CP Thủy sản Việt Úc, từng bước nâng tầm thương hiệu tôm cho Bình Thuận nói riêng và Việt Nam nói chung.

Thời điểm đó đầu tư tiền tỷ để trồng 1 ha lan là rất phiêu lưu, bởi lan là loài hoa rất khó tính, đòi hỏi yêu cầu nghiêm ngặt về độ ẩm và quy trình chăm sóc cũng như phòng trừ dịch bệnh. Theo ông Minh, lan “khó tính” nên phải tạo môi trường xung quanh mát mẻ, ánh sáng đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ... Ngoài ra, kỹ thuật chăm sóc quan trọng nhất là kích thích cho lan ra hoa đúng thời điểm để phục vụ theo yêu cầu của khách hàng.