Nghiên Cứu Cân Đối Dinh Dưỡng Và Cơ Cấu Canh Tác Vùng Trồng Bắp Lai

Giáo sư, tiến sĩ Ngô Ngọc Hưng-Trường đại học Cần Thơ đang thực hiện đề tài “Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật cân đối dinh dưỡng và cơ cấu canh tác hợp lý cho vùng trồng bắp lai ở 3 xã Quốc Thái, Phú Hữu và Khánh An (huyện An Phú, An Giang).
Tổng kinh phí thực hiện đề tài hơn 729 triệu đồng, được ngân sách sự nghiệp khoa học tỉnh hỗ trợ. Đây là đề tài được UBND tỉnh đặt hàng nghiên cứu, nhằm phát triển bền vững vùng trồng bắp lai tập trung diện tích 50 héc-ta ở huyện An Phú.
Đề tài được thực hiện từ tháng 12-2013 đến tháng 6-2015, nhằm đánh giá và xác định biện pháp cân đối dinh dưỡng cho đất, xác định mô hình luân canh hợp lý áp dụng cho vùng trồng bắp lai ở 3 xã Quốc Thái, Phú Hữu và Khánh An.
Giai đoạn 1 của đề tài được thực hiện từ tháng 12-2013 đến tháng 4-2014 với 2 sản phẩm dự kiến: Báo cáo khoa học về việc đánh giá và xác định biện pháp cân đối dinh dưỡng cho đất và xây dựng bảng hướng dẫn lượng bón N, P và K cho bắp lai dựa trên đáp ứng năng suất giữa lô có bón N hoặc P hoặc K và lô khuyết.
Theo đánh giá của Sở Khoa học và Công nghệ An Giang: Chủ nhiệm đề tài đã nỗ lực thực hiện các nội dung công việc theo kế hoạch, cơ bản đáp ứng được mục tiêu và sản phẩm đề ra. Sau 5 tháng triển khai, nhóm nghiên cứu đã điều tra, khảo sát điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội, đánh giá mô hình luân canh vùng trồng bắp bằng phiếu điều tra và thu thập số liệu thứ cấp từ nguồn tài liệu, báo cáo; nghiên cứu “quản lý dưỡng chất theo địa điểm chuyên biệt” cho bắp lai ở vùng nghiên cứu theo phương pháp thí nghiệm trên nông trại.
Đánh giá được tình trạng dinh dưỡng (N, P, K, Ca, Mg) và xác định biện pháp cân đối dinh dưỡng trên cơ sở lý thuyết và dữ liệu khảo sát, điều tra.
Đề xuất được bảng hướng dẫn lượng bón N, P và K cho bắp lai phù hợp với vùng nghiên cứu. Bước đầu, nhóm nghiên cứu đã đánh giá được tình trạng dinh dưỡng và xác định biện pháp cân đối dinh dưỡng cho đất trồng bắp lai và đề xuất được bảng hướng dẫn bón phân phù hợp với vùng nghiên cứu. Bên cạnh đó, một số thuận lợi, khó khăn và giải pháp cũng được đưa ra đối với các mô hình canh tác trong vùng.
Điều này góp phần giúp nông hộ xác định mô hình canh tác phù hợp với năng lực sản xuất của mình, đồng thời giúp cơ quan quản lý ở địa phương tham khảo để khuyến cáo sản xuất, nhân rộng mô hình.
Theo Giáo sư, tiến sĩ Ngô Ngọc Hưng: Vùng đất An Phú thuận lợi trồng bắp lai, vì cho năng suất rất cao so với các vùng trồng khác. Bắp lai ở An Phú có thể được trồng với mật số cao (từ 9,2-10 cây/m2), do đó cần lượng phân bón rất cao để có thể đáp ứng đủ dưỡng chất trong điều kiện mật số cao này.
Nghiệm thức bón đầy đủ các nguyên tố đa và trung lượng (N, P, K, Ca và Mg) đưa đến năng suất trung bình của bắp lai ở Khánh An (13 tấn/héc-ta) và Quốc Thái (14 tấn/héc-ta), cao hơn so với năng suất bắp của nông dân trước đây.
Riêng ở Phú Hữu, mặc dù việc bón cân đối của thí nghiệm lại không cao hơn so với bón phân theo nông dân, nhưng hiệu quả kinh tế của bón phân cân đối vẫn cao hơn vì nông dân ở Phú hữu đã bón cho bắp lai lượng NPK rất cao (295-241-116) so với lượng bón của thí nghiệm (200-90-80).
Kết quả khảo sát về dinh dưỡng N, P, K, Ca và Mg trên 24 ruộng trồng bắp lai của nông dân An Phú cho thấy: Phân N là dưỡng chất thiết yếu đối với cây bắp lai, bất kỳ ruộng của nông dân không bón N đều đưa đến giảm mạnh năng suất. Có 41-62% số ruộng trồng bắp lai được tăng năng suất 1,7-2,3 tấn/héc-ta do bón bổ sung từng loại dưỡng chất P, K, Ca và Mg.
Kết quả điều tra kinh tế-xã hội ở vùng trồng bắp lai An Phú cho thấy, hai mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế khá cao là mô hình bắp-đậu xanh-ớt, nhưng cần vốn đầu tư cao, trình độ văn hóa và kinh nghiệm sản xuất. Mô hình ớt-bắp-bắp cũng cho hiệu quả kinh tế và hiệu quả lao động khá tốt, nhưng chi phí đầu tư cũng cao. Mô hình 3 bắp cần chuyển sang mô hình bắp-đậu xanh-ớt hoặc mô hình ớt-bắp-bắp.
Mô hình bắp-đậu xanh-bắp dễ áp dụng rộng rãi trên các diện tích canh tác, tuy nhiên cần thận trọng khi khuyến cáo cho các nông hộ sản xuất, vì phụ thuộc vào giá cả thị trường của cây đậu xanh. Đề tài đang tiếp tục thực nghiệm để đánh giá các khuyến cáo về công thức phân bón và mô hình luân canh ở An Phú, sẽ tổng kết sau vụ đông xuân 2014-2015.
Related news

Theo thống kê sơ bộ của Hội Nông dân xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn - Bình Định), đến nay, trên địa bàn xã có trên 200 vườn tiêu (quy mô từ 100 gốc trở lên), trong đó có khoảng 60% vườn đã cho quả. Từ sự phát triển mạnh cây tiêu dẫn đến thuê mướn nhân công hái tiêu không dễ, khi tiêu vào mùa thu hoạch.

Vụ thu hoạch điều năm nay ở Sơn Tân (huyện Cam Lâm, Khánh Hòa), nông dân kém vui khi điều mất mùa khoảng 60 - 70% do nắng hạn, sâu bệnh…

Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đối với nông, lâm, thủy sản đã và đang được xã hội quan tâm, nhất là người tiêu dùng. Trong đó rau ăn lá, củ, rau gia vị là thế mạnh của tỉnh Tiền Giang với sản lượng khá lớn, cung cấp cho người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh, kể cả xuất khẩu.

Vụ Đông Xuân (ĐX) 2014 - 2015, nông dân Bình Thuận (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) sản xuất gần 400 ha đậu phụng. Nếu như những năm trước phải sản xuất trong điều kiện thiếu nước tưới, rất vất vả, thì năm nay với nguồn nước tưới dồi dào được tăng cường từ hệ thống kênh tưới Văn Phong vừa xây dựng hoàn thành, đưa vào sử dụng, bà con nông dân xã Bình Thuận đã có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển cây đậu phụng.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bệnh trắng lá mía tiếp tục gây hại 2.113ha; tỷ lệ bệnh từ 30 đến hơn 70%. Cụ thể: Tại thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa), bệnh phát sinh gây hại khoảng 2.106ha, tăng 932ha so với niên vụ 2013 - 2014, tập trung gây hại mía giai đoạn đẻ nhánh, vươn lóng với các giống nhiễm chủ yếu là Suphanburi 7, U-Thoong 4, K95-156. Tại huyện Diên Khánh, diện tích nhiễm bệnh là 6,4ha trên giống Suphanburi 7, U-thoong 4.