Nâng cấp và hiện đại hóa thủy lợi nội đồng để xây dựng nông thôn mới
Mô hình trạm bơm được đầu tư tại xã Trường Long Tây, huyện Châu Thành A.
Thạc sĩ Nguyễn Đình Vượng đánh giá: “Qua nghiên cứu, chúng tôi đã phân chia vùng sinh thái của tỉnh ra thành 8 tiểu vùng theo quan điểm của thủy lợi - tài nguyên nước.
Qua đó, đánh giá được hiện trạng hệ thống thủy lợi (HTTL) của Hậu Giang đa phần còn nhiều khuyết điểm nên chúng tôi đã có nhiều giải pháp đề nghị và thực hiện một số mô hình mẫu ở các điểm nghiên cứu.
Hy vọng, qua đây, góp phần cải thiện một phần hệ thống thủy lợi nội đồng cho các địa phương”.
Qua thực tế khảo sát tại các huyện Châu Thành A, Châu Thành, Long Mỹ, thành phố Vị Thanh, thạc sĩ Nguyễn Đình Vượng đã nhận định, HTTL trong tỉnh đang ở tình trạng xuống cấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa, cơ giới hóa.
Các trạm bơm được xây dựng chưa hợp lý về kiểu dáng, quy mô, vị trí và tốn kém do bơm cá nhân.
Giao thông thủy lợi nội đồng nhiều nơi còn yếu, sự kết hợp giữa giao thông nội đồng với cơ giới hóa chưa cao.
Bờ bao chống lũ sớm bị hư hao, cao trình không phù hợp.
Bên cạnh đó, kênh mương bị bồi, sạt lở nhiều năm không được nạo vét nên năng lực tưới tiêu giảm.
Hơn nữa, HTTL do được đầu tư không đồng bộ nên gây ảnh hưởng nhiều đến sự điều tiết nước mặt ruộng,...
Từ những tồn tại này, chủ nhiệm đề tài đã đưa ra rất nhiều những giải pháp để tháo gỡ khó khăn.
Các giải pháp này đều nhắm đến mục tiêu hướng mọi hoạt động của con người và thiết bị máy móc cơ giới hóa tiện lợi thông qua các thiết kế, công trình xây dựng trên ruộng, bao gồm: nâng cấp cống hở, cống ngầm, nâng cấp các cống ô ruộng,... Theo đó, các thiết bị bổ trợ, thay thế được làm bằng vật liệu nhựa tổng hợp nhưng có độ bền khá cao, chi phí đầu tư thấp, vận hành đơn giản, dễ điều tiết và kiểm soát nguồn nước.
Đặc biệt, chủ nhiệm đề tài còn đề xuất được các mô hình mẫu về giải pháp nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ các mô hình sản xuất nông nghiệp đặc trưng cho 4 nhóm cây trồng, vật nuôi chủ đạo của tỉnh.
Đề xuất này đã góp phần xây dựng nông thôn mới làm quy hoạch thí điểm tại một số xã điển hình, phù hợp với Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp - nông thôn tại địa phương.
Hơn nữa, đề tài đã thiết kế quy hoạch 5 mô hình mẫu thí điểm về nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống thủy lợi cấp xã cho các địa phương điển hình, đại diện các vùng chuyên canh cây - con của tỉnh.
Đó là mô hình mẫu cho vùng chuyên lúa, vùng chuyên cây ăn trái, vùng chuyên thủy sản, vùng chuyên mía, vùng chuyên khóm.
Các giải pháp nhóm nghiên cứu đề xuất có tính khả thi cao.
Ông Hà Minh Triều, ở xã Trường Long Tây, huyện Châu Thành A, cho biết: Đề tài nghiên cứu đã thúc đẩy ngành nông nghiệp tỉnh hỗ trợ nâng cấp trạm bơm cho cánh đồng lớn trong xã.
Nhờ đầu tư bằng điện và hệ thống hiện đại nên dễ dàng trong vận hành mà hiệu quả bơm bước cũng nhanh hơn.
Nhờ đó, bà con nông dân làm lúa vùng này cũng tiết giảm được chi phí bơm tưới, năng suất lúa cũng vượt trội hơn.
Ông Lê Phước Đại, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh, nhận xét: “Tôi rất tâm đắc với kết quả nghiên cứu của đề tài đã phân vùng được các vùng sinh thái, 5 mô hình mẫu phục vụ tưới tiêu cho các nhóm cây trồng chủ lực của tỉnh.
Hơn nữa, đề tài còn đề xuất được 3 mẫu kết cấu trạm bơm điện quy mô vừa và nhỏ phù hợp trên các vùng sản xuất tỉnh.
Trong đó, 1 mẫu trạm bơm tưới tiêu kết hợp đã được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh cho triển khai áp dụng tại xã Trường Long Tây, huyện Châu Thành A.
Hiện nay mô hình đang vận hành khá tốt”.
Có thể nhận thấy rằng, bước đầu các giải pháp nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống thủy lợi nội đồng do đề tài đề xuất đã góp phần nhằm đảm bảo kết hợp canh tác và cơ giới hóa nông nghiệp, tưới tiêu thuận lợi sẽ tăng năng suất cây trồng, giảm giá thành đầu tư, là cơ sở để xây dựng cánh đồng lớn sản xuất theo hướng hàng hóa,...
Kết quả này sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông - ngư nghiệp theo hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp; đồng thời góp phần hoàn thành tiêu chí thủy lợi, xây dựng nông thôn mới ở tỉnh.
Related news
Hiện ở nước ta có nhiều vùng trồng mắc ca, song chủ yếu tập trung ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp, tổng diện tích trồng mắc ca tại Tây Nguyên là 1.645 ha, Tây Bắc, diện tích rừng trồng mắc ca chưa lớn, chủ yếu tập trung tại Sơn La, Điện Biên và một số tỉnh đang trồng thử nghiệm.
Trong rất nhiều nguyên nhân khiến tiến độ giao đất giao rừng trên địa bàn huyện Điện Biên chậm phải kể đến những khó khăn, vướng mắc trong khâu tổ chức họp dân tuyên truyền để bà con nhận khoanh nuôi bảo vệ rừng. Nếu như ở một số địa bàn khác người dân tích cực phối hợp, nhận khoán khoanh nuôi bảo vệ rừng, thì tại bản Nậm Ty 1, Nậm Ty 2, xã Hua Thanh dù đến nay đã qua vài ba lần họp dân, nhưng rừng vẫn chưa thể giao cho cộng đồng!
Đó là tâm sự của của ông Lèng Văn Vĩnh, Trưởng bản Mới 1, xã Chà Cang (huyện Nậm Pồ) cũng như nhiều học viên được học nghề theo Đề án 1956 mà cán bộ Phòng Dạy nghề (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội) nhận được sau khi phỏng vấn trực tiếp. Điều đó nói lên rằng, tìm việc làm cho lao động sau học nghề luôn là “bài toán” khó!
Những năm gần đây, phong trào nuôi ếch ở huyện Tháp Mười phát triển mạnh. Hiện tại, toàn huyện có gần 500 hộ nuôi với trên 14 triệu con, sản lượng mỗi năm gần 5.000 tấn. Do nuôi số lượng nhiều nên có thời điểm giá ếch giảm sâu, người nuôi ếch không có lời, thậm chí lỗ vốn mà vẫn không tìm được thương lái đến mua.
Gắn bó với mô hình nuôi ba ba Nam bộ (cua đinh) trên 10 năm, ông Phan Văn Bá ở ấp Long Hòa, xã Long Thuận, huyện Hồng Ngự đã phát triển mô hình như một trang trại thu nhỏ với 20 bồn và 2 hầm nuôi diện tích 1.400m2, với số lượng gần 200 con giống.