Lưu Ý Luân Canh Tôm Càng Xanh – Lúa

Mô hình lúa - tôm càng xanh phát triển mang tính bền vững cho ra những sản phẩm sạch. Trong quá trình chăm sóc và quản lý, bà con nuôi tôm cần lưu ý một số vấn đề.
Chăm sóc sức khỏe tôm nuôi
Thời vụ thả giống tôm càng xanh từ tháng 6-7 âm lịch hàng năm, nên thả mật độ từ 0,5-1 con/m2 đối với mô hình không có bổ sung thức ăn và 2-3 con/m2 đối với mô hình có bổ sung thức ăn.
Đối với mô hình tôm càng xanh thả thẳng, bà con nên thả giống trước khoảng 30 ngày trước khi tiến hành sạ, cấy lúa. Thả giống trong ao vèo mật độ từ 25-30 con/m2 khoảng 15 ngày trước khi sạ hoặc cấy. Khi tôm được 30 ngày và lúa được khoảng 15 ngày thì cho ra ruộng nuôi. Khi ương tôm càng xanh trong ao vèo, nên bổ sung thêm thức ăn khoảng 10% trọng lượng thân, cho ăn 2 lần/ngày, có thể tận dụng từ nguồn thức ăn có sẵn như ốc bươu vàng, cám gạo…
Thường xuyên gia cố bờ bao cống. Mực nước tối thiểu của mương nuôi 0,8-1m. Theo dõi các yếu tố môi trường như: pH, độ mặn, kiềm… (pH 7-8; kiềm >= 60mg/l; độ mặn
Định kỳ hàng tháng thay nước khoảng 10% ruộng nuôi để kích thích tôm lột xác và bổ sung nước cho ruộng nuôi. Bón vôi CaCO3, Dolomite xung quanh mương nuôi (20-30 kg/ha) khoảng từ 10-15 ngày để ổn định môi trường nước.
Cần bó trà thành bó đặt xung quanh để tạo nơi trú ẩn cho tôm.
Hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu. Khi sử dụng thuốc trừ sâu phải tháo cạn từ 2-3 ngày để cho tôm rút hết xuống mương nuôi, sau 7-10 ngày tiến hành cấp nước trở lại ruộng nuôi để tôm lên ruộng nuôi.
Nên sạ thưa, sạ hàng hay cấy nhằm tạo không gian để cho tôm hoạt động.
Một số vấn đề cần lưu ý
Tôm càng xanh nuôi trên ruộng lúa thường ít xảy ra bệnh. Nếu bị bệnh thường thì rất khó trị, do đó, công tác phòng bệnh được đặt ra hàng đầu: cần lựa chọ nguồn giống tốt, chất lượng; tạo môi trường sống thích hợp cho tôm nuôi |
- Không nên thả cua chung với tôm càng xanh vì 2 loài này đều có tập tính rất hung dữ, thường ăn thịt lẫn nhau khi lột xác hay những con có kích cỡ lớn hơn thường ăn con nhỏ hơn.
- Cần thả trà xung quanh mương để tạo nơi trú ẩn cho tôm khi lột xác hạn chế ăn thịt lẫn nhau.
- Trong giai đoạn đầu thả nuôi bà con phải gây màu nước và duy trì khoảng 1 tháng đầu để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, và bổ sung một phần thức ăn cho tôm.
- Khi thu hoạch lúa xong ta tiến hành nâng mực nước lên khoảng từ 0,5m. Giai đoạn này, nếu kiểm tra thấy tôm nhỏ, tôm mang trứng nhiều, bà con cần kiểm tra độ mặn trong ruộng nuôi và độ mặn trên sông. Nếu độ mặn trên sông cao ta tiến hành cấp nước vào ruộng nuôi đạt độ mặn từ 7-8‰ nhằm mục đích cho tôm cái rụng trứng và kích thích tôm lột xác đồng thời cho tôm lên ruộng nuôi ăn những nguyên sinh động vật và lúa rụng và kết hợp với bổ sung thức ăn để cho tôm tăng trưởng nhanh, sẽ hạn chế được tỉ lệ tôm cái thành thục sớm và cải thiện được kích cỡ tôm nuôi cũng như tăng trọng lượng khi thu hoạch.
Related news

Số diện tích lúa đông xuân gieo sạ sớm hiện nay đang trổ chín và sẽ thu hoạch trước Tết Nguyên đán 2015 chiếm 50%, còn lại là phần lớn diện tích nông dân xuống giống đồng loạt lúa đang trong giai đoạn làm đòng sẽ thu hoạch đông ken, tập trung thời điểm tháng 2 - 3 dương lịch.

Đó là chỉ đạo của Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Nưng tại hội thảo sơ kết “Xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn trồng lúa theo hướng ứng dụng công nghệ cao”, do Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Định Thành (Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang – AGPPS) thực hiện tại xã Vọng Thê.

Những năm gần đây, tỷ lệ người mắc bệnh ung thư, các vụ ngộ độc thực phẩm có chiều hướng gia tăng, rồi nguồn thủy sinh bị cạn kiệt, tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng ngày càng diễn biến phức tạp... Nhiều ý kiến cho rằng, nguyên nhân chính gây ra tình trạng trên là do người dân lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV).

Năm qua, xuất khẩu tôm đạt gần 4 tỉ USD là cố gắng rất lớn của của nông dân và doanh nghiệp. Cho dù tình trạng dịch bệnh EMS dẫn đến sản lượng giảm mạnh. Tại thời điểm này, dịch bệnh này vẫn chưa khắc phục được. Người nuôi phải đối chọi tỉ lệ tôm nuôi không thành công rất cao.

Trong đó gạo cao cấp XK là 1,331 triệu tấn chiếm 21,08%, gạo cấp trung bình là 2,013 triệu tấn chiếm 31,87%, gạo cấp thấp là 732.000 tấn chiếm 11,58%, gạo thơm các loại là 1,302 triệu tấn chiếm 20,62%, nếp là 637.000 tấn chiếm 10,09%. Theo đó, hợp đồng tập trung 2 triệu tấn (chiếm 31,67%), hợp đồng thương mại 4,316 triệu tấn (chiếm 68,33%).