Các Vấn Đề Khi Nuôi Tôm Sú Độ Mặn Thấp
Tôm sú (Penaeus monodon) có khả năng sống trong các môi trường độ mặn, từ 2 phần ngàn (ppt) đến 45 phần ngàn (2-45 ppt). Tuy nhiên, khi nuôi tôm ở độ mặn quá cao hoặc quá thấp thường có nhiều vấn đề hơn là khi nuôi tôm trong khoảng độ mặn tối ưu cho đặc điểm sinh học của tôm sú (tối ưu là từ 15 đến 25 ppt). Nuôi tôm ở độ mặn cao hơn 30 ppt sẽ dễ làm bùng phát dịch bệnh, đặc biệt các bệnh virus đốm trắng, đầu vàng và vi khuẩn phát sáng. Vì vậy, người nuôi tôm có xu hướng nuôi tôm ở môi trường nước lợ hoặc ngọt nhưng khi nuôi tôm ở nước ngọt các vấn đề thường gặp phải là:
1. Độ mặn
Độ mặn thả nuôi không nên thấp hơn 7-8 ppt trong tháng nuôi đầu nhằm giảm thiểu tối đa việc gây sốc tôm khi hạ mặn từ trại giống chuyển về ao nuôi. Sau đó độ mặn ao nuôi có thể hạ từ từ xuống nhưng không nên xuống dưới 2ppt trong giai đoạn tôm giống đến khi đạt cỡ 12g. Nếu độ mặn thấp hơn 2ppt thì tôm sẽ dễ bị còi cọc và mềm vỏ và nếu hiện tượng này xảy ra, cần phải nâng độ mặn ao nuôi lên.
2. Quản lý nước
Người nuôi cần có ao chứa lớn để lắng nước ít nhất 3 ngày trước khi tái sử dụng lại cho ao nuôi. Nước đáy trong ao nuôi cần lấy thải bớt ra ao lắnghoặc ao xử lý khi màu nước ao nuôi trở nên đậm đặc, các kênh cấp nước nên có độ rộng tối thiểu 5m và độ sâu 1.5 mét để có đủ nguồn nước cấp cho ao nuôi.
3. Kiểm soát pH và Kiềm
Do việc nuôi tôm hiện nay là hạn chế thay nước nên hiện tượng phát triển quá mức của tảo trong ao thường xảy ra và việc này sẽ kéo pH lên cao cũng như làm cho giá pH biến động ngày đêm lớn hơn vì vậy cần kiểm soát mật độ tảo cao vừa phải bằng cách định kỳ thay bớt lớp nước đáy ao và châm thêm nước mới từ ao lắng. Giá trị pH nên vào khoảng 7.8-8.0 vào buổi sáng và không nên vượt quá 8.3 vào buổi chiều. Giá trị kiềm cũng không nên quá cao vì nếu pH>8.3 và Kiềm > 150 ppm thì ion canxi sẽ tích lũy nhiều trong vỏ tôm cũng làm tôm bị còi cọt.
4. Hiện tượng ăn nhau và gây chết tôm
Sau 70-80 ngày nuôi ở độ mặn quá thấp tôm sẽ dễ bị mềm vỏ và sẽ dễ bị tôm không lột xác tấn công ăn thịt các tôm lột xác, vì vậy cần nâng độ mặn cao hơn 3 ppt.
5. Khí độc
Khi thả nuôi mật độ cao thường khí độc ammonia là vấn đề thường gặp phải, đặc biệt khi pH cao vì vậy kiểm soát pH cao vừa phải và ổn định cũng như trao đổi nước là cần thiết để kiểm soát khí độc ammonia.
6. Độ đục
Đối với các ao mới hoặc ao vừa cải tảo lại thường 40-50 ngày nuôi đầu sẽ dễ gặp vấn đề đục nước sau khi thả tôm hoặc sau khi thay nước. Lúc đó tôm dễ bị sậm màu hoặc đỏ than vào buổi sáng. Nếu gặp vấn đề này, người nuôi cần phải giải quyết sớm khi còn tảo trong ao và trước khi tôm bỏ ăn. Để giảm độ đục, việc cần trước tiên là tắt máy quạt nước vào thời điểm ban ngày để lắng bớt các chất gây đục nước và cho tảo nổi lên phía trên, sau đó tháo bớt nước đáy ao để loại bỏ các chất lắng đọng. Nếu sau khi tắt máy quạt nước để lắng rồi tháo đáy mà vẫn còn đục thì phải can thiệp thêm các chất keo tụ để kết tủa các chất làm đục nước, rồi lại xả đáy. Sau đó châm nước mới vào và cấy thêm giống tảo vào ao nuôi.
7. Hiện tường còi – chậm lớn
Khi nuôi độ mặn quá thấp (< 2ppt), càng về sau tôm càng chậm lớn, vì vậy cần phải nâng thêm độ mặn nếu còn nuôi tiếp sau 90 ngày. Trong trường hợp thả mật độ quá cao thì cần san thưa bớt tôm qua ao khác.
Related news
Bệnh mềm vỏ kinh niên là bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thương phẩm. Biểu hiện của bệnh là sau khi lột xác, vỏ tôm không cứng lại được, vỏ thường bị nhăn nheo, dễ rách nát nên dễ bị cảm nhiễm của các tác nhân gây bệnh, tôm có vỏ mềm yếu, vùi mình dạt bờ. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng mềm vỏ của tôm.
Nước mặn / lợ được đưa vào ao lắng, trữ lắng 7-10 ngày, sát trùng, diệt mầm bệnh bằng clorin 15-30ppm (theo qui trình sử dụng clorin).
Nuôi tôm sú đang là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, nghề nuôi tôm đã tiến đến việc thâm canh hoá ngày càng cao. Do đó, việc quản lý chất lượng nước trong môi trường ao nuôi ngày càng khó khăn, đặc biệt là sự phát sinh tính độc Ammonia (NH3) trong môi trường ao nuôi.
Phong trào sản xuất tôm giống, nuôi tôm thương phẩm ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh đòi hỏi nguồn cung cấp tôm bố mẹ lớn. Nhưng việc xử dụng tôm bố mẹ ngoài tự nhiên bị hạn chế bởi tính mùa vụ và tập tính sinh sản
Ở tôm sú, bệnh thường hay gặp nhất, khó ngăn ngừa và điều trị là bệnh thân đỏ đốm trắng. Theo các công trình nghiên cứu, tất cả các giai đoạn phát triển của tôm đều có thể nhiễm bệnh này. Giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng nuôi đầu tiên đến tháng nuôi thứ hai trong ao nuôi tôm thịt.