Bổ sung mannan oligosaccharide cho lợn nái ảnh hưởng đến phản ứng miễn dịch của lợn nái
Bổ sung mannan oligosaccharide cho lợn nái ảnh hưởng đến phản ứng miễn dịch của lợn nái và lợn con
Mannan oligosaccharide (MOS) đã được xác định là một oligosaccharide có chức năng điển hình và tác động tích cực lên sự tăng trưởng cũng như miễn dịch. Tuy nhiên, có một số báo cáo không nhất quán về ảnh hưởng của MOS đối với sự tăng trưởng và sức khoẻ động vật.
Bên cạnh đó, thông tin liên quan đến hiệu quả bổ sung MOS ở cả lợn nái và khẩu phần ăn của lợn con cũng khan hiếm. Trong thử nghiệm này, người ta đã nghiên cứu ảnh hưởng của bổ sung MOS đối với lợn nái và / hoặc tình trạng miễn dịch của chúng. Sáu mươi lợn nái được chia ngẫu nhiên thành chế độ ăn kiểm soát (sCON, n = 30) hoặc chế độ ăn kiểm soát tương tự bổ sung 400 mg / kg MOS (sMOS, n = 30) từ 86 ngày của thời kỳ mang thai đến khi cai sữa.
Sử dụng phương pháp điều trị của lợn nái cho lợn con mới đẻ, ở 7 ngày tuổi, đối với chế độ ăn tiêu chuẩn (pCON) hoặc chế độ ăn tiêu chuẩn cho lợn con được bổ sung 800 mg / kg MOS trong vòng 28 ngày.
Các chế độ ăn không có ảnh hưởng đến tổng số lợn con sinh ra và sinh ra còn sống cũng như trọng lượng lợn khi sinh. Nồng độ immunoglobulin trong sữa non và sữa không bị ảnh hưởng bởi việc bổ sung MOS cho lợn nái.
Tuy nhiên, khoảng thời gian cai sữa đến chu kỳ động dục của lợn nái trong điều trị sMOS ngắn hơn so với điều trị sCON. Trọng lượng cai sữa và trọng lượng trước khi cai sữa của lợn con được sinh ra từ lợn nái sMOS lớn hơn so với lợn con từ lợn nái sCON. Lợn con từ sMOS có nồng độ huyết thanh globulin miễn dịch A (IgA), globulin miễn dịch G (IgG), bổ sung 3 (C3), bổ sung 4 (C4) và lysozyme (LYZ) lúc cai sữa, cũng như C3 và LYZ cao hơn vào 35 ngày tuổi.
Điều trị bằng chế độ ăn pMOS cải thiện cả tăng cân trước và sau khi cai sữa,tăng nồng độ IgA và IgG khi cai sữa, cũng như C3, LYZ và C4 ở 35 ngày tuổi. Việc bổ sung chế độ ăn của lợn nái vào cuối thai kỳ và trong thời gian cho bú đã cho thấy những tác động tích cực trong việc rút ngắn thời gian cai sữa và thời gian động dục cũng như cải thiện sự phát triển và miễn dịch của lợn con trước khi cai sữa.
Về sau, bổ sung MOS trong chế độ ăn của lợn con cũng ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng và miễn dịch không đặc hiệu một phần sau khi cai sữa.
Tất cả đều chứng minh bổ sung MOS cho cả chế độ ăn của lợn nái và lợn con, có thể tác động hỗ trợ trong quá trình tăng trưởng và tình trạng miễn dịch của lợn con cai sữa.
Related news
Để lợn nái đạt tỷ lệ thụ thai cao, số con đẻ ra nhiều, trọng lượng lợn sơ sinh cao, người chăn nuôi cần phải chọn được thời điểm phối giống cho lợn nái thích hợp.
Cũi đẻ cho lợn nái nhằm cách ly với nền chuồng, giảm hao hụt lợn con do bị đè, giảm tỉ lệ mắc bệnh đường ruột trước khi cai sữa, nâng cao số con sống trên ổ lúc cai sữa. Cũi úm cho lợn con sau cai sữa, để nuôi lợn con sau cai sữa (từ 30-60/75 ngày tuổi) đạt tỉ lệ sống cao, tăng trưởng nhanh.
Bệnh kiết lị ở lợn còn gọi là bệnh hồng lị (tiêu chảy ra máu) là loại bệnh truyền nhiễm lây lan cao, bệnh gây ra bởi loài xoắn khuẩn Serpulina hyodysenteria gây bệnh cho lợn ở tất cả các lứa tuổi nhưng thường gặp nhất là 8-14 tuần tuổi.
Lợi ích chính và quan trọng nhất của sử dụng thụ tinh nhân tạo (TTNT) là nhằm nhân rộng nguồn gen ưu việt, giúp người chăn nuôi sử dụng con giống chất lượng tốt nhất từ bên ngoài.
Nái tơ lên giống vào tháng tuổi thứ 6 đến tháng thứ 8 (trọng lượng khoảng 80 – 110kg) tuỳ thuộc vào điều kiện chăm sóc. Tuy nhiên , tốt nhất chỉ nên phối giống khi nái trên 6 tháng tuổi và trọng lượng ít nhất 90kg.