Ẩn số thức ăn chăn nuôi
Hiện cả nước có 199 nhà máy sản xuất TĂCN, sản lượng năm 2014 tới gần 14,5 triệu tấn (chưa tính thức ăn thủy sản), cao hơn năm 2010 khoảng 4 triệu tấn. Sản xuất TĂCN vẫn đang phát triển mạnh.
Tuy nhiên, tại hội nghị, nhiều chuyên gia chăn nuôi nhận định: Sản xuất TĂCN đang tạo ra những mối lo không nhỏ bởi 3 ẩn số lớn.
Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước không nắm được chính xác sản lượng TĂCN công nghiệp, bởi các doanh nghiệp không báo cáo sản lượng về Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Do đó, sản lượng TĂCN hàng năm mà Cục Chăn nuôi công bố chỉ là ước tính.
Thứ hai, chất lượng TĂCN hiện nay hầu như nằm trong “vùng tối”, không được kiểm soát chặt chẽ. Như vậy, không loại trừ sự gian lận về chất lượng.
Thứ ba, các cơ quan quản lý lúng túng trước “ma trận” giá thành và giá bán TĂCN, chẳng biết đâu thực, giả. Các câu hỏi: Có hay không hiện tượng neo giá, làm giá TĂCN? Doanh nghiệp sản xuất TĂCN đang lỗ hay lãi lớn?... không có câu trả lời xác đáng.
Chẳng hạn, hiện nay, các doanh nghiệp TĂCN trong nước công bố tỷ lệ lợi nhuận trên giá thành khoảng 1- 3%. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia chăn nuôi, tỷ lệ này phải lên đến 10- 15%, thậm chí có doanh nghiệp “ăn” tới 30%. Đâu là con số đúng?
Thêm nữa, trong năm nay, thuế giá trị gia tăng (5%) đối với các nguyên liệu nhập khẩu như ngô, đậu tương... đã được bãi bỏ, nhưng giá TĂCN giảm không như kỳ vọng. Ví dụ: Giá thức ăn hỗn hợp gà thịt từ 11.000 đồng/kg hồi đầu năm xuống 10.000 đồng/kg trong tháng 7; giá thức ăn hỗn hợp lợn thịt từ 9.600 đồng/kg xuống 8.800 đồng/kg... Vì sao vậy?
Theo TS. Nguyễn Văn Giáp- Giám đốc Trung tâm chính sách và chiến lược nông nghiệp, nông thôn miền Nam- kết quả khảo sát của trung tâm cho thấy, có 89% người (nhà quản lý, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu) được hỏi cho rằng, cần có quy định doanh nghiệp sản xuất TĂCN phải công khai giá thành và giá bán, giới hạn mức lợi nhuận.
Thái Lan quy định lợi nhuận của TĂCN là 5%, Việt Nam tại sao không?
Quản lý chặt chẽ chất lượng, minh bạch giá cả TĂCN nhằm xóa bỏ những ẩn số là việc làm cấp thiết giúp người chăn nuôi giảm giá thành sản xuất, tăng sức cạnh tranh. Song, ai sẽ làm?
Related news
Từng làm việc trong một doanh nghiệp ngành Than với mức lương ổn định trên 7 triệu đồng/tháng thế nhưng Đinh Hữu Hiền (khu 6, phường Bắc Sơn, TP Uông Bí, Quảng Ninh) đã quyết định nghỉ việc để về nhà nuôi gà. Anh Hiền tâm sự: Thời điểm cách đây 5 năm, 7 triệu cũng là to, với mức thu nhập ấy nhiều người muốn xin vào làm.
Với sự hỗ trợ tích cực của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank), Quảng Bình đang đi những bước cuối cùng chuyển toàn bộ khu nuôi tôm công nghiệp 120ha của Công ty Sông Gianh cho người dân xã Phú Trạch sản xuất trong tháng 9, chấm dứt việc bỏ hoang gần 10 năm nay.
Với quy mô kinh tế gia đình, nông dân nhiều địa phương ở An Giang đã tổ chức nuôi trồng và chế biến thủy sản theo hướng dẫn kỹ thuật, đầu tư đồng vốn trong điều kiện có được, tận dụng ngày công lao động… tạo ra nguồn thu nhập đáng kể, vừa giúp ích việc làm cho số đông hộ nghèo ở xóm, ấp, vừa có khả năng nhân rộng trên địa bàn dân cư và phát triển mạnh ở nông thôn.
Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang phát triển ngành thủy sản theo hướng hội nhập bền vững với chỉ tiêu đến năm 2020 diện tích nuôi trồng đạt 1 triệu ha mặt nước, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2,5 triệu tấn, trong đó có 450.000 tấn tôm.
Nuôi tôm trên cát là một trong những mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao đối với các doanh nghiệp (DN) và hộ nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì mô hình này cũng tiêu tốn một lượng điện năng rất lớn do các DN, hộ nuôi sử dụng các thiết bị lạc hậu, không có tính năng tiết kiệm năng lượng (TKNL).