Xây Dựng Và Phát Triển Thương Hiệu Tơ Hồng Đô

Tơ Hồng Đô (Thiệu Hóa) từng dệt nên thương hiệu dân gian cho cả một vùng đất, nhưng nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt nhiễu nơi đây cũng lắm thăng trầm. Có thời kỳ do đầu ra của sản phẩm không ổn định nên nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt nhiễu ở Thiệu Đô tưởng chừng như mai một.
Tuy nhiên, những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của tỉnh, chính quyền địa phương trong việc mở hướng xây dựng, phát triển thương hiệu cho sản phẩm nên nghề trồng dâu, nuôi tằm của huyện, nhất là ở xã Thiệu Đô đã và đang được khôi phục, phát triển, mang lại thu nhập cao cho người nông dân.
Xã Thiệu Đô hiện có gần 200 hộ tham gia trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt nhiễu. Từ năm 2010, xã đã vận động người dân chuyển đổi giống dâu cũ sang trồng giống dâu mới như: VH 15, GQ 2 nên gần 20 ha dâu của xã không chỉ hạn chế được sâu bệnh, giảm bớt khâu chăm sóc mà năng suất còn tăng gấp 3 lần. Nếu như trước đây, thu nhập bình quân 1 hộ trồng dâu, nuôi tằm chỉ từ 15 đến 20 triệu đồng/năm, thì hiện nay, con số này đã tăng lên 70 - 80 triệu đồng/hộ/năm.
Ông Hoàng Bình Quyền, thôn 7, xã Thiệu Đô, cho biết: “Người dân chúng tôi rất phấn khởi khi chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện để khôi phục và phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt nhiễu của cha ông.
Đây là cơ hội để chúng tôi lấy lại thương hiệu truyền thống “Tơ Hồng Đô” của địa phương cũng như vươn lên làm giàu”. Được biết, với 8 sào dâu hiện có, trừ chi phí, mỗi năm gia đình ông Quyền thu về trên 70 triệu đồng.
Thực tế, từ xa xưa, tơ Hồng Đô đã nổi tiếng là loại tơ mềm, đẹp, bền và được nhiều người ưa chuộng. Hiện nay, tơ Hồng Đô đã và đang được ghi nhận trên thị trường quốc tế như Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia... Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên sản phẩm tơ Hồng Đô vẫn thiếu sức cạnh tranh trên thị trường.
Để tránh nguy cơ tranh chấp nhãn hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, Công ty Thương mại và Dịch vụ (TM&DV) Thanh Đức đóng trên địa bàn xã Thiệu Đô đã phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ xây dựng logo bảo hộ cho sản phẩm tơ Hồng Đô.
Theo đó, UBND tỉnh đã phê duyệt Dự án “Xây dựng quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể tơ Hồng Đô”. Cùng với đó, huyện Thiệu Hóa tích cực kêu gọi các nguồn vốn, đầu tư kết cấu hạ tầng, tập huấn kỹ thuật ươm tơ, dệt nhiễu cho bà con nông dân; đề xuất và được UBND tỉnh đồng ý chủ trương quy hoạch cụm làng nghề truyền thống tơ Hồng Đô với diện tích 2,5 ha. Ngay sau khi tỉnh có chủ trương, huyện đã nhanh chóng xây dựng đề án phát triển, rà soát và vận động được 30 hộ tham gia đầu tư sản xuất tại cụm làng nghề.
Nhằm tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm, huyện cũng đã tổ chức cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất lớn đi tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và tìm kiếm thị trường tiêu thụ.
Trong đó, Công ty TM&DV Thanh Đức là một trong những doanh nghiệp tiên phong trong việc tìm kiếm thị trường cho sản phẩm tơ Hồng Đô. Nếu như trước đây, các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm từ tơ tằm của công ty có giá trị khoảng 100 triệu đồng thì đến nay công ty đã ký được nhiều hợp đồng trị giá hàng chục tỷ đồng.
Theo ông Hoàng Viết Đức, Giám đốc Công ty TM&DV Thanh Đức, nếu khai thác hết tiềm năng nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt nhiễu ở Thiệu Đô nói riêng và trên địa bàn huyện Thiệu Hóa nói chung có thể giải quyết việc làm cho khoảng 3.000 lao động và kèm theo hàng nghìn lao động trong các ngành dịch vụ có liên quan.
Như vậy, việc xây dựng và phát triển thương hiệu tơ Hồng Đô là một hướng đi đúng. Bởi nó không chỉ tạo được đầu ra ổn định cho sản phẩm, tạo sức cạnh tranh trên thị trường, giải quyết được việc làm, mang lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân mà còn góp phần gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của địa phương.
Related news

Thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu, những năm gần đây huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) khuyến khích nông dân chuyển đổi hàng ngàn ha đất gò cao trồng lúa kém hiệu quả sang trồng màu nhằm hạn chế tình trạng khô hạn do thiếu nước tưới. Sau cây đậu phộng, cây bắp giống, đậu bắp giống và đậu xanh giống trồng thử nghiệm trên đất lúa gò cao đang mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho nông dân. Thu nhập từ các cây trồng mới chịu hạn này cao gấp 1,5 đến 2 lần so cây lúa trước đây.

Chưa bao giờ người trồng tiêu ở Nông trường 25.3, xã Tịnh Đông (Sơn Tịnh - Quảng Ngãi) lại có một mùa tiêu được giá như năm nay. Và cũng nhờ cây tiêu mà nhiều hộ dân nơi đây đã có cuộc sống khấm khá hơn. Thế nhưng, trước tình trạng cây tiêu bị chết hàng loạt trong nhiều tháng qua đã khiến nông dân “đứng ngồi không yên”.

Năm 2014, toàn tỉnh Đồng Tháp triển khai xây dựng các cánh đồng lớn (cánh đồng liên kết) với diện tích 86.630ha/524.262ha, chiếm 16,5% tổng diện tích sản xuất cả năm. Trong những tháng đầu năm 2015, tỉnh triển khai xây dựng 62.272ha cánh đồng liên kết. Nông dân sản xuất trong các cánh đồng liên kết giảm giá thành sản xuất lúa được từ 650 - 700 đồng/kg, lợi nhuận từ 22 - 2 3 triệu đồng/ha/vụ (cao hơn từ 4 - 5 triệu đồng/ha/vụ so với sản xuất nhỏ lẻ).

Theo kế hoạch, năm nay, toàn tỉnh Cà Mau sẽ gieo cấy gần 45.000 ha lúa trên đất nuôi tôm ở những nơi có đủ điều kiện về ngăn mặn giữ ngọt, có nguồn nước tưới bổ sung khi cần thiết.

Cây chè được xem là cây trồng chủ lực không chỉ giúp nông dân Lâm Đồng xóa đói giảm nghèo mà còn vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, do nhiều nơi sản xuất vẫn còn tự phát, không theo quy hoạch, chưa tạo mối liên kết bền vững giữa doanh nghiệp chế biến tiêu thụ với người sản xuất, nên hiện giá trị sản phẩm chè Lâm Đồng trên thương trường cạnh tranh trong và ngoài nước vẫn còn ở mức “khiêm tốn”.