Triển vọng phát triển bền vững ngành tôm
Việc làm cần thiết
Ông Trình Trung Phi - Giám đốc Trung tâm Quốc gia Giống hải sản Nam bộ (thuộc RIA 2) cho biết: “Gia hóa tôm sú bố mẹ là một việc làm hết sức cần thiết, tôm sú là một đối tượng chiến lược của Việt Nam trong nhiều năm qua và chỉ khi nào chúng ta thành công chương trình này thì mới đảm bảo được nguồn tôm giống sạch bệnh, không lệ thuộc vào nguồn tôm bố mẹ tự nhiên có nguy cơ mang mầm bệnh”.
Chính vì nguyên nhân trên, ngay từ năm 1998, RIA 2 đã có chương trình nghiên cứu về việc khép kín vòng đời tôm sú trong điều kiện nhân tạo bằng hình thức nuôi nhiều giai đoạn trong những hệ thống nuôi khác nhau nhưng đều không thành công. Đến năm 2007, việc thay đổi hệ thống nuôi theo nghiên cứu của tổ chức CSIRO (Australia) và các thay đổi về mặt dinh dưỡng đã có những thành công bước đầu. Từ năm 2008 đến nay, RIA 2 đã không ngừng hoàn thiện quy trình gia hóa này (nguồn kinh phí chủ yếu từ Bộ NN&PTNT).
Áp dụng khoa học
Hiện nay, toàn bộ quá trình gia hóa tôm sú đều được thực hiện trong hệ thống nuôi tuần hoàn kín đáy cát kết hợp với hệ thống lọc theo hình thức raceway (nước chảy) với mức độ an toàn sinh học cao trong nhà. Trong hai năm qua, RIA 2 đã đầu tư xây dựng 6 hệ thống bể nuôi lớn với số lượng tôm mẹ có thể tăng lên gấp 5 lần so với quy mô trước đây.
Ngoài áp dụng hệ thống nuôi, lựa chọn nguồn gốc tôm được RIA 2 chú trọng. Tôm được RIA 2 khai thác tự nhiên, hai dòng tôm có nguồn gốc bố mẹ từ miền Trung (Đà Nẵng) và miền Nam (Cà Mau). Việc làm này giúp RIA 2 liên tục lai các dòng tôm khác máu nhau, tránh việc chỉ chọn lọc vài gia đình tôm sau đó nuôi gia hóa và tiếp tục sàng lọc trong các đàn tôm này thì chỉ đến thế hệ F2 hoặc F3 là có thể dẫn đến cận huyết. RIA 2 đã lên sơ đồ lai để kiểm soát việc lai theo sơ đồ, đảm bảo không xảy ra tình trạng cận huyết. Ngoài hệ thống nuôi, vấn đề dinh dưỡng cũng được xem là chìa khóa để thành công chương trình này.
Riêng năm 2013, RIA 2 bắt đầu chương trình chọn giống tôm sú nên nguồn vật liệu khá đa dạng như tôm bố mẹ tự nhiên nhập khẩu từ biển Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, các vùng sinh thái trong nước và kể cả nguồn tôm bố mẹ đã được gia hóa.
Nhưng không dễ
Tuy nhiên, việc sàng lọc các quần đàn tôm này gặp không ít khó khăn do tỉ lệ nhiễm bệnh cao. Bên cạnh đó, khả năng thành thục sinh dục của tôm gia hóa không cao bằng tôm tự nhiên, vì tôm tự nhiên phải từ 180 - 200 g mới cho sinh sản, còn tôm gia hóa chỉ đạt 110 - 120 g đã đến độ tuổi sinh sản và RIA 2 tiến hành cho sinh sản nên sức sinh sản thấp. Trong mấy năm qua chủ yếu là đưa ra nghiên cứu các giải pháp để nâng cao sức sinh sản như về vấn đề dinh dưỡng, hormon… và cải thiện hệ thống nuôi để hoàn thiện qui trình nên các sản phẩm của RIA2 chưa thể làm vật liệu cho chọn giống.
Mặc dù vậy, việc nghiên cứu gia hóa tôm bố mẹ bước đầu cho kết quả. Ông Phi cho biết, năm 2012, RIA 2 đã sản xuất hơn 1.300 cặp tôm bố mẹ từ dự án sản xuất thử nghiệm và đề tài nâng cao sức sinh sản tôm sú. Kết quả cho thấy chất lượng tôm bố mẹ đã được cải thiện so với các công bố trước đây và có thể làm chủ công nghệ này. Tỉ lệ đẻ sau cắt mắt đạt 80%. Trung bình mỗi lứa đẻ thu được 259.525 Nauplius, mỗi tôm mẹ sinh sản được 812.797 Nauplius. So với sản lượng trứng của tôm bố mẹ tự nhiên thì chỉ đạt khoảng 50% nhưng kích cỡ tôm gia hóa cũng chỉ bằng 50% tôm tự nhiên. Dự kiến trong năm 2013, RIA 2 sẽ tập kết các đàn tôm vật liệu và lai tạo tối thiểu 125 gia đình và có thể lọc lọc được 80 gia đình làm vật liệu cho quá trình chọn giống.
Tuy nhiên, để thương mại hóa đàn tôm giống bố mẹ này là việc làm không dễ. Theo ông Phi, “điều kiện cương quyết là chúng ta phải thành công chương trình chọn giống tôm sú. Việc làm này đòi hỏi phải có nguồn vật liệu tốt và một chương trình nghiên cứu dài hơi cho chọn giống. Cần tối thiểu 2 năm nữa để có những sản phẩm tốt ban đầu cho chọn giống và sau đó là một quá trình đánh giá, chọn lọc theo các tính trạng mong muốn của thị trường”.
Tags: nganh tom, nuoi tom, nuoi trong thuy san