Tồn trữ cà phê thế giới cuối vụ 2015/16 sẽ thấp nhất 4 năm
USDA nhận định, tồn trữ cà phê cuối niên vụ tới sẽ giảm xuống 31,5 triệu bao loại 60 kg, mức thấp chưa từng có kể từ vụ 2011/12, bởi sự sụt giảm mạnh ở Brazil, nước sản xuất hàng đầu thế giới, xuống chỉ 4,3 triệu bao.
USDA cũng hạ dự báo về tồn trữ của Brazil cuối vụ 2014/15 xuống 5,8 triệu bao, từ mức 6,9 triệu bao dự báo hồi tháng 12 năm ngoái, với lý do xuất khẩu tăng.
Sản lượng cà phê thế giới được dự báo sẽ tăng lên 152,7 triệu bao trong niên vụ tới, từ mức 146,3 triệu bao niên vụ 2014/15, do sản lượng của Brazil tăng lên 52,4 triệu bao từ mức 51,2 triệu bao, và của Việt Nam – nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới – tăng lên 28,6 triệu bao từ mức 28,2 triệu bao.
Sản lượng arabica – được sử dụng phổ biến để rang xay - của Brazil sẽ tăng 3,8% lên 38 triệu bao nhờ thời tiết thuận lợi sau niên vụ trước đó bị hạn hán.
Sản lượng robusta – thường được sử dụng trong sản xuất cà phê hòa tan – sẽ giảm 2,6 triệu bao xuống 14,4 triệu bao do “mưa dưới mức trung bình và nhiệt độ trên mức trung bình” ở Espirito Santo, nơi trồng nhiều robusta nhất của Brazil.
Sản lượng cà phê Việt Nam – nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới - niên vụ 2015/16 dự báo sẽ tăng 400.000 bao lên 28,6 triệu bao bởi năng suất cải thiện nhờ thời tiết thuận lợi. Từ tháng 1 đến tháng 3/2015, khu vực Tây Nguyên bị hạn hán và nắng nóng. Nhưng mưa đã đến từ tháng 4 và thuận lợi cho việc nở hoa và sự phát triển của quả. Diện tích trồng dự báo sẽ không thay đổi so với năm ngoái, bởi diện tích tăng nhẹ ở Lâm Đồng và Đak Nông, nhưng lại giảm nhẹ ở Gia Lai. Trên 95% sản lượng sẽ là robusta. Xuất khẩu dự báo sẽ tăng 500.000 bao lên 25,5 triệu bao, trong khi tồn trữ sẽ vẫn giữ ở mức như cuối niên vụ trước.
Sản lượng cà phê Việt Nam – thống kê và dự báo (ĐVT: triệu bao loại 60 kg)
Tại nước sản xuất lớn thứ 3, Colombia, dự báo sản lượng sẽ tăng lên 13 triệu bao, mức cao nhất trong vòng 2 thập kỷ, bởi nỗ lực chống lại bệnh gỉ lá đã mang lại hiệu quả như mong đợi. Bệnh gỉ lá đã làm sản lượng của Colombia giảm 40% kể từ đầu niên vụ 2008/09.
Tại nước sản xuất lớn thứ 4, Indonesia, và nước sản xuất lớn thứ 6, Honduras, sản lượng sẽ cao kỷ lục, lần lượt 11 triệu bao và 5,9 triệu bao.
Tại Indonesia, thời tiết thuận lợi trong giai đoạn cây ra hoa và kết trái sẽ giúp sản lượng tăng 2,2 triệu bao so với năm ngoái, trong khi ở Honduras bệnh gỉ lá được chữa trị sẽ giúp sản lượng tăng 700.000 bao.
Tiêu thụ cà phê thế giới cũng sẽ tăng mạnh, lên 147,7 triệu bao trong niên vụ 2015/16, và thị trường sẽ dư thừa 5 triệu bao, cao hơn mức dư thừa 290.000 bao vụ 2014/15.
Dự báo của USDA về cung – cầu cà phê thế giới (triệu bao loại 60 kg/bao)
Related news
Hẹn tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, lần nào cũng lỡ cỡ vì ông bận, cũng bị ngắt quãng bởi những cú điện thoại, những chuyến đến thăm của nhiều nông dân hỏi về ứng dụng của bóng đèn ôzôn. Còn nhớ cách đây cả năm, gặp tôi, ông cứ úp mở về chuyện đèn ôzôn được đưa cho nông dân để thắp cho thanh long ra hoa, để khử mùi, khử khuẩn cho chuồng trại gia súc nhưng tịnh không tiết lộ cụ thể ở đâu.
Bón thúc nụ, thúc hoa: Cần bón khi nhìn thấy một vài chùm nụ xuất hiện, thường trước khi nở hoa rộ 25-30 ngày. Vị trí bón phân theo hình chiếu của tán cây, đây là vị trí hoạt động mạnh nhất của bộ rễ
Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, ngoài việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để giảm chi phí, tăng năng suất đem lại lợi nhuận thì việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhiều người dân. Vì vậy, thời gian qua, thị trấn Trà Lồng, huyện Long Mỹ đã vận động thành lập các tổ, nhóm sản xuất để hỗ trợ vốn và kỹ thuật cho bà con nông dân, trong đó có câu lạc bộ (CLB) trồng rau màu sạch ở ấp Khánh Hưng 1
Qua kết quả nghiên cứu và thực tế cho thấy trồng xen băng cây phân xanh theo đường đồng mức như muồng hoa vàng, cốt khí…giữa cây công nghiệp (cà phê, cao su, điều) và cây ngắn ngày (ngô, lúa nương, sắn…) là biện pháp đơn giản và rất có hiệu quả trong việc bảo vệ đất, chống xói mòn, cải tạo độ phì của đất và góp phần tăng năng suất cây trồng.
Phương pháp nuôi này phụ thuộc con giống tự nhiên, chi phí xây dựng cơ bản thấp, chi phí sản xuất hạn chế, nhưng hiệu quả tương đối cao. Có rất nhiều loại đá khác nhau để làm vật bám tùy thuộc vào từng địa phương như đá vôi làm vật bám rất tốt, đá cuội, đá san hô… Kích cỡ đá trung bình 2-4 kg/hòn và dao động từ 1-10 kg/hòn. Đá được chuyên chở bằng thuyền hoặc ghe rải đều trên bãi có hàu giống xuất hiện. Năng suất đạt 0,5-1,5 kg hàu nguyên con/hòn đá.