Home / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nuôi Lợn Trên Nền Đệm Lót Sinh Học Ưu Điểm 4 Không

Nuôi Lợn Trên Nền Đệm Lót Sinh Học Ưu Điểm 4 Không
Publish date: Monday. July 29th, 2013

Với ưu điểm “4 không”: không mùi hôi, không khí độc, không cần dọn chất thải và không phải tắm cho đàn lợn trong quá trình nuôi; phương pháp chăn nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã mở ra hướng chăn nuôi mới theo hướng phát triển bền vững.

Cơ sở đầu tiên áp dụng phương pháp chăn nuôi mới này là HTX Quý Long, thôn Hòa Mục 2, xã Thái Long (TP Tuyên Quang). Năm 2011, HTX Quý Long xin thực hiện dự án nuôi lợn trên đệm lót sinh học. Với phương pháp này, người chăn nuôi đào mỗi chuồng sâu khoảng 1 mét, bên dưới có lót trấu, mùn cưa và rải trên nền một lớp men vi sinh.

Thức ăn cho đàn lợn cũng là men vi sinh trộn với cám ngô, cám gạo theo tỷ lệ nhất định. Hiện cả khu vực chăn nuôi của HTX có khoảng 10 con lợn nái và 20 con lợn thịt, đều là giống lợn đen địa phương được chăn nuôi theo phương thức này. Một điều dễ nhận thấy khi vào thăm khu vực chăn nuôi lợn là gần như không có mùi, không có chất thải ảnh hưởng ra môi trường xung quanh.

Cán bộ Trung tâm khuyến nông tỉnh kiểm tra nền đệm lót sinh học tại chuồng nuôi lợn của gia đình chị Đổng Thị Điểu, thôn 4, xã Bằng Cốc (Hàm Yên).

Anh Trần Hồng Hải, chủ nhiệm HTX Quý Long cho biết: Để thực hiện được mô hình chăn nuôi này, các anh đã đi tham quan, học hỏi ở nhiều nơi như Hà Nam, Ninh Bình... Thấy mô hình mới, cũng dễ áp dụng nên anh em về quyết tâm thực hiện bằng được, giờ thì thành công rồi. Nuôi lợn bằng phương pháp này không tốn nhiều nhân công lao động, như nông trại của gia đình với mô hình trên 30 con lợn chỉ cần một nhân công để đổ thức ăn, còn lại không tốn một chút sức lực nào cho việc dọn dẹp, vệ sinh chuồng trại.

Với ưu điểm trên, năm nay Trung tâm khuyến nông tỉnh đã triển khai mô hình này tại 2 huyện Sơn Dương và Hàm Yên, trong đó tiêu chí là lựa chọn những hộ có mô hình chăn nuôi lớn nhưng chưa xây dựng được hầm bể biogas.

Chị Đổng Thị Điểu, thôn 4 xã Bằng Cốc (Hàm Yên), một trong những hộ được chọn thực hiện mô hình cho biết: Gia đình chăn nuôi nhiều, thường từ 20 con lợn thịt trở lên nên vấn đề chất thải cũng khá đau đầu, vì không chỉ ảnh hưởng đến môi trường sống của gia đình mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh. Khi thực hiện theo đúng những hướng dẫn mà Trung tâm khuyến nông triển khai trong mô hình nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học, gia đình yên tâm hẳn.

Chất thải không có, đàn lợn phát triển khỏe mạnh, lượng thức ăn giảm đi đáng kể… điều này khiến những người phụ thuộc vào chăn nuôi như gia đình chị hoàn toàn yên tâm.

Ngoài 20 hộ được lựa chọn thực hiện mô hình, hiện đã có khá nhiều hộ chăn nuôi trong xã và các xã lân cận đến tìm hiểu về cách thức làm chuồng cũng như trộn chế phẩm vi sinh.

Theo chị Nguyễn Thu Trang, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông tỉnh: Mô hình nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học là phương pháp sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm tạo ra các quần thể vi sinh vật sống để xử lý chất thải của vật nuôi, làm sạch môi trường, giúp đàn lợn ăn nhiều, lớn nhanh, tỷ lệ mắc bệnh tiêu hóa giảm do vật nuôi có môi trường tự nhiên để vận động.

Sau thời hạn 2 - 4 năm sử dụng, các chất đệm lót được đưa ra và sử dụng làm phân bón cho cây trồng rất tốt nhờ có hàm lượng dinh dưỡng cao. Nguyên liệu được sử dụng làm đệm lót chuồng là bột ngô, mùn cưa, trấu trộn đều với men vi sinh làm nền thay cho nền xi măng.

Như vậy, sử dụng mô hình này, người chăn nuôi tiết kiệm được tiền điện, nước, nhân công lao động, do không phải tắm cho lợn và giảm đáng kể công quét dọn chuồng. Ngoài ra, khi lợn ăn men vi sinh từ đệm lót sẽ giúp tiêu hóa tốt thức ăn, thời gian nuôi giảm xuống còn 4 tháng, thay vì nuôi theo truyền thống phải mất 5 tháng lợn mới đạt 1 tạ/con.

Chị Trang nhấn mạnh, mô hình chăn nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học nếu được nhân rộng tại các hộ chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh, nhất là khu đông dân cư, sẽ có tác dụng thiết thực bảo đảm vệ sinh môi trường, sức khỏe cho người chăn nuôi và cộng đồng, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.


Related news

Thử Nghiệm Giống Lúa Chịu Phèn ĐTM 126 Cho Vùng Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp) Thử Nghiệm Giống Lúa Chịu Phèn ĐTM 126 Cho Vùng Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp)

Tại hội thảo, nông dân đã trao đổi, học tập kinh nghiệm sản xuất với các hộ trong mô hình, trao đổi trực tiếp với lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp Đồng Tháp Mười về kỹ thuật canh tác, thị trường tiêu thụ của giống lúa ĐTM 126 để yên tâm ứng dụng và sản xuất loại giống triển vọng này trong những vụ tiếp theo.

Thursday. January 15th, 2015
Ứng Phó Với Rét Đậm, Rét Hại Nông Dân Chủ Động Giữ Nhịp Sản Xuất Ứng Phó Với Rét Đậm, Rét Hại Nông Dân Chủ Động Giữ Nhịp Sản Xuất

Trong những ngày gần đây, nhiệt độ trung bình trên địa bàn thành phố ở mức 13 - 15 độ C. Dự báo, những ngày tới, nhiệt độ có thể xuống thấp hơn và trong tháng 1 sẽ có nhiều đợt rét đậm, rét hại ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Nông dân Hải Phòng đang chủ động sản xuất, ứng phó với rét đậm, rét hại.

Thursday. January 15th, 2015
Vùng Quê Của Lá Dong Vùng Quê Của Lá Dong

Xóm Thái Bình của thôn Hữu Ái, xã Giang Sơn (Gia Bình - Bắc Ninh) có 287 hộ gia đình sinh sống thì 100% số hộ đều có diện tích trồng lá dong. Hàng năm ngoài trồng lúa, việc trồng và bán lá Dong cũng giúp cho các hộ dân trong xóm có một nguồn thu nhập đáng kể.

Thursday. January 15th, 2015
Đà Lạt Trồng Khoai Tây Lãi 100 Triệu Đồng/ha Đà Lạt Trồng Khoai Tây Lãi 100 Triệu Đồng/ha

Ngày 7/1, nhiều nhà vườn tại Đà Lạt cho biết, thương lái đang thu mua khoai tây ở vườn với giá là 11.000đ/kg, ở giá này người trồng thu về khoảng 100 triệu đồng/ha tiền lãi sau hơn 3 tháng gieo trồng.

Thursday. January 15th, 2015
Hiệu Quả Từ Cây Bí Đỏ Đồng Tiền Hiệu Quả Từ Cây Bí Đỏ Đồng Tiền

Xác định vụ đông là vụ sản xuất chính trong năm, với mục tiêu nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác, một vài năm trở lại đây, thành phố Yên Bái đã đưa nhiều giống cây trồng mới vào sản xuất, trong đó có cây bí hạt đậu lai F1-868 hay còn gọi là bí đỏ đồng tiền vàng.

Thursday. January 15th, 2015