Nuôi gà đẻ trứng VietGAP: Bền vững và tăng thu nhập
Đây là hướng đi đang được triển khai tại nhiều tỉnh, thành phố, tạo hiệu quả bền vững, cho thu nhập ổn định và rất cần được nhân rộng.
Thường xuyên thay lót ổ đẻ để trứng sạch hạn chế dập, vỡ
Chuẩn bị chuồng, dụng cụ
Chuồng trại nên chọn nơi cao ráo, thoáng mát, xa khu dân cư, xung quanh được bao bọc bằng tường, rào, lưới, tránh sự qua lại của người lạ và các loại động vật hoang dã, nền chuồng láng xi măng phẳng có độ dốc 3 - 5 độ tiện cho việc vệ sinh.
Hai tuần đầu có thể dùng mẹt tre hoặc khay tôn (kích thước 60x80 cm, chiều cao 2,5 - 3 cm) cho 80 - 100 gà. Từ tuần thứ 3 trở đi có thể dùng 2 loại máng ăn (máng tròn hoặc máng dài). Có nhiều loại máng uống, tùy thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho phù hợp và kinh tế. Dùng vải bạt, bạt dứa hoặc có thể tận dụng bao tải dứa khâu lại thành rèm che bên ngoài chuồng để giữ nhiệt độ chuồng nuôi và tránh gió lùa hoặc mưa hắt vào chuồng gà, có thể dùng cót ép hay phên liếp để che chắn.
Trong thời gian gột, để tận dụng nguồn nhiệt, tránh gió lùa, nên sử dụng cót ép làm quây úm trên nền với chiều cao 40 - 50 cm, đường kính 2 - 2,5 m; Hoặc dùng lồng gột bằng sắt có kích thước 1x2x0,4 m. Quây dùng để gột gà con 1 - 15 ngày tuổi. Có thể dùng trấu, mùn cưa hoặc rơm rạ băm nhỏ. Trước cửa chuồng phải có hố sát trùng hoặc khay đựng vôi bột.
Kỹ thuật chọn gà
Gà 1 ngày tuổi, chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, bóng, màu lông tương đối đồng nhất, loại ngay những gà con quá nhỏ, chân khô, vẹo mỏ, khèo chân, hở rốn, bụng nặng, bết lông.
Gà hậu bị, chọn gà vào 9 tuần tuổi và 20 tuần tuổi. Chọn những con đầu tròn, nhỏ; mắt to, sáng; mỏ bình thường; mào và tích đỏ tươi; thân hình cân đối; khoảng cách giữa xương cuối lưỡi hái và xương háng rộng; da chân bóng; lông màu sáng, bóng mượt; trạng thái nhanh nhẹn.
Với gà đẻ cần định kỳ loại thải những con gà đẻ kém nhằm tiết kiệm thức ăn. Dựa vào đặc điểm ngoại hình: mào và tích tai phải to, mềm, đỏ tươi; khoảng cách giữa xương háng phải rộng; lỗ huyệt phải ướt, cử động và có màu nhạt; màu sắc mỏ, chân và màu lông phai nhạt dần theo thời gian đẻ.
Chăm sóc
Giai đoạn gà con (0 - 9 tuần tuổi)
Trước khi cho gà vào gột cần bố trí chất độn chuồng và cho bóng điện hoặc lò sưởi (bóng 100 - 200 W/quây) vào trước 1 - 2 h, cho gà vào quây với mật độ 20 - 25 con/m2, nới dần quây theo tuổi gà và điều kiện thời tiết. Cho gà sử dụng thức ăn đã trộn không để quá 5 ngày. Cho ăn ngô nghiền trong 1 ngày đầu để gà tiêu hết túi lòng đỏ. Cho gà ăn tự do cả ngày và đêm, 6 - 8 lần/ngày. Nước uống sạch nên pha thêm Vitamin C, B và đường Gluco. Cung cấp đủ ánh sáng để gà ăn, uống. Điều chỉnh dụng cụ sưởi ấm tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường và tuổi gà. Thường xuyên quan sát đàn gà để điều chỉnh nhiệt độ trong quây cho thích hợp. Cần định kỳ phun thuốc khử trùng xung quanh khu vực vực chăn nuôi. Thường xuyên phun thuốc sát trùng, theo dõi trạng thái đàn gà để có biện pháp xử lý kịp thời và tiêm phòng vaccin cho đàn gà theo lịch.
Giai đoạn gà hậu bị (10 - 19 tuần tuổi)
Thức ăn: Hạn chế số lượng thức ăn hàng ngày từ 7 tuần tuổi, khống chế thức ăn để gà đạt khối lượng chuẩn theo từng giống. Cần chuyển đổi từ từ khi cho ăn thức ăn khác.
Ánh sáng: Giai đoạn này chỉ cần ánh sáng tự nhiên.
Mật độ: 10 - 17 tuần tuổi là 6 - 10 con/m2, 17 - 19 tuẩn tuổi là 3 - 5 con/m2
Quan sát theo dõi đàn gà hàng ngày để có biện pháp can thiệp kịp thời, đồng thời biết được thời điểm gà đẻ bói để điều chỉnh phương pháp chăm sóc cho phù hợp. Đặc biệt, chú ý chăm sóc đàn gà trống để đảm bảo có trống tốt thả chung với gà mái lúc 20 tuần tuổi.
Chọn giống: Kết thúc 20 tuần tuổi cần chọn những con đạt tiêu chuẩn sang đàn gà đẻ để nâng cao độ đồng đều cho đàn gà. Tiến hành chọn gà lúc trời mát.
- Các biện pháp nâng cao độ đồng của đàn gà đẻ và đúng độ tuổi:
+ Phân loại đàn gà theo khối lượng lúc 9 tuần tuổi và 20 tuần tuổi để đạt độ đồng đều cao.
+ Mỗi tháng một lần cân gà và so sánh giữa khối lượng gà với tài liệu hướng dẫn để điều chỉnh thức ăn cho hợp lý.
Định kỳ phun thuốc khử trùng khu vực chăn nuôi; Thường xuyên vệ sinh máng ăn, máng uống; Tiêm phòng vaccin cho gà theo lịch.
Giai đoạn đẻ (trên 19 tuần tuổi)
Cho ăn theo tỷ lệ đẻ của đàn gà và theo giống gà.
+ Chế độ chiếu sáng: Ổn định 14 - 16 giờ/ngày.
- Chọn gà lên đẻ: Chọn những gà mái lên đẻ có ngoại hình phát dục tốt biểu hiện bằng độ bóng của lông mào tích, bụng mềm, xương chậu rộng. Đối với gà trống cần chọn những gà mào thẳng đứng, to, chân cao, hai cánh vững chắc úp gọn trên lưng, dáng hùng dũng.
- Mật độ nuôi: nếu nuôi chuồng 3 - 5 con/m2, nếu có sân chơi 5 - 6 con/m2.
- Ổ đẻ được phân bố đều trong chuồng nuôi, số lượng phải đủ, tốt nhất 5 gà/ổ, không nên để ánh sáng trực tiếp chiếu vào, ổ đẻ lót dày trấu, phôi bào, rơm rạ sạch, thường xuyên thay lót ổ đẻ (2 lần/tuần) để trứng sạch hạn chế dập vỡ.
Hằng ngày quan sát đặc điểm ngoại hình của đàn gà (màu lông, rụng lông, khối lượng, màu sắc mào…) để biết được các thời điểm khác nhau và các hiện tượng đẻ bất thường, từ đó thay đổi thức ăn và chế độ chăm sóc hợp lý. Loại những con gà ốm, gà không đẻ ra khỏi đàn. Nếu vỏ trứng mỏng hoặc đẻ non thì phải bổ sung thêm canxi. Nếu vỏ trứng nhỏ hơn bình thường thì phải tăng thêm lượng thức ăn.
>> Tập cho lợn con ăn sớm sẽ giúp cho lợn con tách mẹ sớm, bổ sung đủ năng lượng trong giai đoạn lợn được 5 tuần tuổi, lợn giống chất lượng tốt, ít bị rối loạn tiêu hóa, sức tăng trưởng tốt. Áp dụng phương pháp này có thể cho lợn nái sinh sản được 2,2 - 2,3 lứa/năm.
Related news
Gà con không thể sử dụng hiệu quả các nguồn chất béo như gà trưởng thành. Bên cạnh đó, các nguồn chất béo và dầu cũng không cung cấp giá trị năng lượng giống
Nuôi gà chậm lớn là vấn đề đáng lo ngại, bởi nó không chỉ làm tốn thức ăn, tăng thời gian nuôi, giảm hiệu quả, mà còn làm tăng chi phí và tỷ lệ gà nhiễm bệnh.
Vi khuẩn và độc tố vi khuẩn gây nhiều bệnh trên gia cầm như viêm đường tiêu hóa, đường hô hấp, nhiễm trùng huyết, viêm tụ tế bào bạch cầu, viêm màng bụng