Kỹ Thuật Ương Nuôi Nâng Cấp Tôm Hùm Giống
Hiện nay, tôm hùm là một loại hải đặc sản đã và đang được chú trọng trong nuôi trồng Thủy sản, là đối tượng có giá trị xuất khẩu cao. Trên thế giới tôm hùm phân bổ từ vùng biển Ấn Ðộ đến tây Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, tôm hùm phân bố từ Quảng Bình đến Bình Thuận và có 7 loài thuộc giống Panulirus được xếp theo thứ tự giá trị kinh tế như sau:
- Loài tôm hùm bông P. ornatus (Fabricius, 1789)
- Loài tôm hùm Ðá P. homarus (Linnaeus, 1758)
- Loài tôm hùm Sỏi P. stimpsoni (Holthuis, 1763)
- Loài tôm hùm Ðỏ P. longipes (Edwards, 1868)
- Loài tôm hùm Ma P. penicilatus (Olivier, 1791)
- Loài tôm hùm Sen P. vesicolor (Latraille, 1804)
- Loài tôm hùm Bùn P. poliphagus (Herbst, 1793).
Hiện nay, tôm hùm chưa sinh sản nhân tạo được, con giống nuôi hoàn toàn dựa vào tự nhiên . Ðể giải quyết việc con giống ngày càng khan hiếm trong khi chưa tạo được tôm hùm giống bằng con đường sinh sản nhân tạo thì việc ương nâng cấp tôm hùm giống từ tôm trắng , trắng hồng , tôm đen lên tôm giống cỡ lớn (100g/con trở lên) nhằm tăng khả năng sống tự nhiên của tôm hùm đã và đang được nhiều địa phương quan tâm thực hiện.
II/ KỸ THUẬT ƯƠNG NÂNG CẤP TÔM HÙM LỒNG.
1/ Chọn địa điểm ương nuôi.
- Nơi có độ mặn cao, tương đối ổn định nằm trong khoảng từ 30 - 35o/oo ít bị ảnh hưởng của lũ, lụt.
- Có nguồn nước trong sạch, nước lưu thông tốt, ít bị ảnh hưởng bởi chất thải công nghiệp, nông nghiệp và đô thị.
- Là nơi kín gió, có độ sâu phù hợp cho việc xây dựng và quản lí lồng nuôi, mức nước tối thiểu khi triều kiệt là 1,5 m.
- Chất đáy là cát; cát bùn; hoặc chất đáy cát, cát bùn có lẫn đá san hô nhỏ, vỏ động vật thân mềm.
- Gần nguồn giống, thức ăn và thuận tiện đường giao thông.
2/ Thiết kế xây dựng lồng nuôi.
2.1/ Kiểu lồng hở ( bè):
Là loại lồng được cố định bỡi các cọc gỗ găm xuống đất.
- Kích thước lồng nuôi phù hợp là: (3 x 3 x2) m; (3 x 2 x2) m, chiều cao cọc lồng phụ thuộc vào độ sâu tại nơi đặt lồng, tốt nhất nên đặt tại nơi có độ sâu 1,5 2 m (lúc thủy triều thấp nhất),
2.2/ Kiểu lồng kín: (lồng di động).
Loại lồng này thích hợp ở vùng nhiều sóng gió, vùng có sóng gió theo mùa. Kiểu lồng này được áp dụng phổ biến trong việc ương nâng cấp tôm hùm giống hiện nay (vùng rạn Ðông-Tây Giang, Mỹ Tân thích hợp cho việc sử dụng loại lồng này).
- Kích thước lồng thường nhỏ hơn lồng hở để thuận tiện cho việc di chuyển. Kích thước lồng thường được sử dụng trong ương nuôi là: (0,7x0,8x1,2)m; (1x1x1,2)m; (1,5x1,5x1,2)m; (2 x2x1,2m);
- Ðối với việc ương nuôi theo qui mô nhỏ, giai đoạn đầu (1 2 tháng đầu) có thể sử dụng lồng có kích thước nhỏ hơn (từ 0,5 1,0 m2) sau đó san ra lồng nuôi có kích thước lớn hơn.
* Dù là kiểu lồng kín hay lồng hở (bè) ta đều phải đặt lồng cách đáy ít nhất là 0,5m.
3/ Thả tôm.
3.1/ Chọn giống.
Ðể chọn được giống tốt ta cần chú ý một số vấn đề sau:
- Giống nuôi tốt nhất nên mua tại địa phương nhằm tránh sự khác biệt về điều kiện môi trường, thời gian vận chuyển xa làm yếu tôm và tránh con giống đã lưu giữ dài ngày.
- Giống được đánh bắt một cách tự nhiên không qua việc sử dụng thuốc nổ hay bất kỳ một loại hóa chất gây mê nào khác
- Tôm giống phải có hình dáng cân đối, đầy đủ các phần phụ, không trầy sướt, thương tổn, có màu sắt tươi sáng tự nhiên, tôm khoẻ mạnh, không mang mầm bệnh.
- Chọn giống có kích cỡ đồng đều, hoặc phân cỡ tôm để thả nuôi tránh thả tôm có nhiều kích cỡ vào một lồng nuôi.
- Nên chọn con giống đánh bắt theo phương pháp lặn, bằng bẫy.
3.2/ Cách vận chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi.
- Có hai phương pháp vận chuyển: vận chuyển khô và vận chuyển nước.
- Ðối với tôm hùm cỡ nhỏ để đảm bảo tôm có tỷ lệ sống cao nên sử dụng phương pháp vận chuyển hở bằng thùng xốp và có sục khí bằng máy thổi ô xy. ( sẽ trình bày kỹ ở phần sau)
3.3/ Thả tôm
Khi tôm vận chuyển đến lồng nuôi ta tiến hành thuần nhiệt độ cho đến khi gần bằng với nhiệt độ môi trường nuôi bằng cách cho dần dần nước từ môi trường nuôi vào dụng cụ chứa tôm sau 30 - 60 phút cho tôm hồi phục sức khỏe hoàn toàn ta mới thả tôm ra.
3.4/ Mật độ nuôi.
Ðối với tôm trắng có thể thả mật độ 50 - 60con/m2
Sau 60 ngày nên san thưa tôm ra với mật độ khoảng còn 15 - 20 con/m2
Sau 90 - 100 ngày nên san thưa với mật độ 12 - 15 con/m2
Và chú ý phân nuôi theo cỡ tôm.
4/ Thời vụ thả nuôi.
Từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau là đã có nguồn tôm trắng giống xuất hiện nhiều vào thời gian này ta bắt đầu thả giống là được.
Tuy nhiên do tôm hùm giống rất nhạy cảm với sự biến động môi trường và thích nghi nhiệt độ không cao, do vậy chúng ta nên ương tôm trong mùa bấc nhằm tránh gây sốc cho tôm để đảm bảo tỷ lệ sống cao.
Tốt nhất nên ương từ tháng 1 đến tháng 3 hàng năm.
5/ Chăm sóc và quản lí.
- Thức ăn: Tôm hùm là loại tạp ăn, thức ăn chủ yếu là cá tạp, cua, ghẹ, cầu gai,... và các loại nhuyễn thể : Trong nuôi nhân tạo ta nên chọn những thức ăn tươi và chất lượng cao như cua, ghẹ, tép, ruốc, hàu,.. và băm nhỏ cho phù hợp với khả năng bắt mồi của tôm.
- Cho ăn chủ yếu là cho ăn tươi, nên cho tôm hùm ăn 2 lần/ngày vào buổi sáng và chiều tối.
- Lượng cho ăn hằng ngày từ 15 - 20% trong lượng đàn tôm (khoảng 5 - 7 g/ 100 con tôm mới thả nuôi.
- Quản lí: Hằng ngày lặn kiểm tra lồng, kiểm tra tình trạng tôm, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay thiếu để từ đó có hướng giải quyết kịp thời.
- Ðịnh kỳ 7 - 10 ngày vệ sinh lồng nuôi một lần đảm bảo môi trường sạch sẽ thông thoáng.
- Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp trên cơ sở dựa vào 3 yếu tố là môi trường nuôi, sức khỏe tôm và quản lý mầm bệnh.
6/ Một số bệnh thường gặp và cách phòng trị.
Việc nghiên cứu bệnh tôm hùm chưa được nghiên cứu nhiều. Hiện nay tôm hùm nuôi thường xảy ra một số bệnh như trắng râu, long đầu, đầu to, mềm vỏ, mang đen, mang tôm bị phồng, đỏ thân,... và thường xảy ra ở tôm hùm nuôi thương phẩm.
7/ Thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm.
Sau thời gian nuôi từ 5 - 7 tháng tùy vào cỡ giống, mật độ nuôi và mức độ đầu tư tôm có thể đạt khối lượng từ 80g -150g/con ta tiến hành thu hoạch chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi.
Related news
Hiện tượng: Mang tôm có những điểm đen, các tơ mang chuyển màu đen, mang thối rữa toàn bộ. Quan sát bằng mắt thường thấy những búi sán lá đơn chủ trắng nhỏ như sợi tóc
Bệnh xảy ra ở tôm hùm bông (Panulirus ornatus), tôm hùm đá (P. homarus) và tôm hùm tre (P. polyphagus) nuôi lồng; riêng tôm hùm đỏ (P. longipes) chưa thấy xuất hiện dấu hiệu bệnh này.
Lưới được giăng xuống biển bằng thuyền vào khoảng 8 giờ tối, sau 4 - 5 tiếng (vào khoảng 12 - giờ khuya lưới được kéo lên thuyền lần thứ nhất để thu gom những con tôm hùm giống dính lưới.
Ðể giải quyết việc con giống ngày càng khan hiếm trong khi chưa tạo được tôm hùm giống bằng con đường sinh sản nhân tạo thì việc ương nâng cấp tôm hùm giống từ tôm trắng , trắng hồng
Oxytetracyline dạng tiêm, dung dịch pha loãng: sử dụng dung dịch muối sinh lý đẳng trương (0,85%) hoặc nước cất (dùng để tiêm).