Kỹ Thuật Nuôi Bào Ngư
Nuôi bằng lồng trong bể xi măng
- Lồng nuôi hình chữ nhật bằng nhựa có lỗ, kích thước 50 x 40 x 30 cm, treo trong bể xi măng hoặc xếp trồng lên nhau cách đáy 20 cm. Bể xi măng hình chữ nhật diện tích 10 x 2 x 1 m, có mái che nắng, xung quanh để trống, trong đó có một hộc nhỏ để lọc nước biển chảy tuần hoàn: nhiệt độ 26 – 30 C, độ mặn 30 - 35 phần ngàn, độ pH = 7,6 - 8,7, ôxy hoà tan 5 ml/lít.
- Cho ăn: dùng rong mơ thái vụn 1cm hoặc rong câu chỉ vàng, 3 - 4 ngày cho ăn 1 lần và cho ăn dư thừa, với hệ số 16:1. Tạo dòng nước luân chuyển tuần hoàn trong bể với tốc độ 10 lít/phút để kích thích bào ngư ăn và sinh trưởng. Hàng ngày thay 20 – 30 cm nước trong bể, vớt xác chết, thức ăn thừa trong lồng. Hàng tháng thay 100% nước, thay lồng và chuyển sang bể nuôi mới.
- Mật độ nuôi: 60 - 100 con/lồng kích cỡ 100 mm trở lên. Khi bào ngư nuôi đạt kích thước 20 – 25 mm thì san lồng nuôi với mật độ 30 con/lồng.
Nuôi bằng lồng treo bè ngoài biển
- Vị trí nuôi: bào ngư nuôi ở vùng tương đối kín gió, không có sóng lớn (không làm hỏng lồng nuôi và bè), độ mặn ổn định 30 – 35 0/00, xa cửa sông, không có nước ngọt chảy vào và có dòng chảy lưu thông, độ sâu 6 – 8 m.
- Lồng nuôi: sử dụng lồng nuôi hình chữ nhật bằng nhựa có lỗ (3 – 4 mm), kích thước 50 x 40 x 30 cm có dùng móc nhựa gài nắp để tiện cho việc kiểm tra và cho ăn. Lồng được treo trên bè nổi cách nhau 0,5 m và ở độ sâu 2 – 5 m.
- Bè nuôi: có thiết kế và quy cách như bè nuôi tôm hùm. Có thể nuôi tôm hùm ở dưới, nuôi bào ngư ở lớp nước trên. Bè nuôi thiết kế di động để có thể di chuyển khi mưa bão, sóng lớn.
- Mật độ nuôi 60 - 100 con/lồng (cỡ 10 mm trở lên). Khi bào ngư đạt 20 – 25 mm san lồng nuôi mật độ 30 con/lồng.
-Cho ăn: rong câu chỉ vàng, rong mơ thái vụn, 3 - 4 ngày cho ăn 1 lần và cho ăn dư thừa.
- Vệ sinh lồng nuôi: sau 1 tuần nuôi, dùng bàn chải cọ kỹ lồng nuôi, diệt trừ địch hại, vớt thức ăn thừa, xác bào ngư chết... Hàng tháng thay lồng nuôi mới.
Nuôi thả đáy trên bãi đá dọc bờ biển
- Vị trí nuôi: nuôi bào ngư ở vùng trung triều có độ sâu khi triều xuống cạn còn 1 – 2 m nước, độ mặn cao và ổn định 30 – 35 0/00, dòng chảy tương đối (5 m/giây), không có nước ngọt chảy vào, xa cửa sông. Đáy đặc biệt là đá tảng hay rạn san hô để bào ngư ẩn trốn và nhiều tảo, rong...
- Thức ăn: ngoài các loại rong, cần rải định kỳ rong câu chỉ vàng (5 - 7 ngày/lần) để tăng cường thức ăn cho bào ngư, rải vào 4 - 5 giờ chiều tối để bào ngư ra ăn.
-Cách thả giống: trước khi thả phải ương bào ngư giống trong bể xi măng từ 3 – 5 mm cho tới khi bào ngư được 15 mm thì thả giống. Thả vào lúc 6 – 9 giờ sáng. Để bào ngư bám vào bản tảo rồi thả xuống vùng nuôi, sau đó bào ngư phát tán ra xung quanh.
-Mật độ nuôi: 15 - 20 con/lồng. Trước khi thả phải lặn bắt hết địch hại như sao biển, bạch tuộc... Thả thức ăn rong tảo xuống, kiểm tra định kỳ tỉ lệ sống chết của bào ngư.
- Sau 9 - 10 tháng nuôi bào ngư đạt kích thước thương phẩm 5 – 6 cm (30 - 35 con/kg) thì thu hoạch.
( Theo Nông thôn ngày nay, 14/12/2004 )
Related news
Bào ngư là một trong những đặc sản của biển. Giống như ốc hương, sò huyết, hải sâm, vi cá mập…, bào ngư là món ăn có giá trị dinh dưỡng cao, có tác dụng chữa nhiều bệnh trong đó tăng cường sinh lực cho nam giới được chú ý hơn cả.
Cùng với yến sào và vi cá mập, bào ngư cũng được xem là món ăn quý trong các bữa tiệc sang trọng. Nó còn là vị thuốc độc đáo trong cả Đông và Tây y, giúp sáng mắt, trị ho và tăng cường sinh lực cho nam giới.
Bào ngư thuộc loại hải sản quý, là một trong tám món ăn tuyệt phẩm gọi là “bát trân” thường xuất hiện trong các bữa ăn vương giả.
Bào ngư là một loài hải sản quý hiếm, thịt có hàm lượng dinh dưỡng cao, vỏ có thể dùng làm dược phẩm. Ở Việt Nam, ngư dân chủ yếu khai thác bào ngư từ tự nhiên, vì vậy, sản lượng bào ngư giảm sút rất nhiều. Do đó, việc nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất giống và nuôi bào ngư là hết sức cần thiết.
Hoàn thiện kỹ thuật sản xuất giống và nuôi bào ngư - Phần 2