Kiểm soát sinh vật mang mầm bệnh truyền nhiễm
Rất nhiều bệnh truyền nhiễm do virus gây ra trên tôm đều do các sinh vật mang mầm bệnh xâm nhập vào hệ thống tôm nuôi, gây ra tỷ lệ chết cao, tốc độ chết nhanh và thiệt hại lớn cho người nuôi tôm.
Các tác nhân
Virus gây bệnh cho tôm chủ yếu là theo chiều ngang qua nguồn nước, xác tôm nhiễm bệnh và thông qua các sinh vật mang mầm bệnh. Sinh vật mang mầm bệnh có thể nhiễm virus nhưng không có biểu hiện của bệnh. Các sinh vật mang mầm bệnh cho tôm gồm: Một số loài tôm nuôi, tôm tép tự nhiên, các loài cua, nhóm thức ăn tươi sống (giun nhiều tơ, luân trùng, Artemia, ốc mượn hồn…), các loài chim biển và các loài côn trùng thủy sinh.
Trong hệ thống nuôi tôm, sinh vật mang mầm bệnh được xác định làm lây nhiễm mầm bệnh virus do khả năng di chuyển từ ao này sang ao khác. Cua có thể nhiễm virus từ việc ăn xác tôm hoặc sống trong môi trường nước có nhiễm virus. Trứng của luân trùng Brachionus urceus thu từ bùn đáy ao tôm đã được phát hiện có nhiễm virus gây bệnh đốm trắng (WSSV). Tôm còn sống sót sau giai đoạn dịch bệnh virus như TSV, IHHNV có thể nguồn lan truyền virus cho các tôm khác nhạy cảm với bệnh. Qua đó, chất thải từ sinh vật mang mầm bệnh này sẽ là nguồn lây lan của bệnh virus trong hệ thống nuôi. Ví dụ: Bệnh còi do virus MBV lây truyền do virus có trong phân của tôm bị nhiễm bệnh. Bệnh virus hoại tử tuyến ruột giữa (BMN) được thải ra cùng với phân vào môi trường nước và làm lây lan mầm bệnh này trong hệ thống nuôi thâm canh tôm he Nhật Bản. Như vậy, phổ loài sinh vật mang mầm bệnh rộng là một trong những yếu tố giúp cho các bệnh virus lây lan nhanh chóng.
Trong môi trường nước ao nuôi, sinh vật phù du được xác định có nhiễm virus và làm tăng quá trình lây lan của virus trong hệ thống nuôi. Theo Jiang (2012), khi thực hiện thí nghiệm theo dõi quá trình lây nhiễm WSSV trong các ao nuôi tôm quảng canh ở Ấn Độ đã cho thấy quá trình lây nhiễm diễn ra trong các ao tôm như sau: Đầu tiên WSSV nhiễm trong tôm tự nhiên, kế tiếp được phát hiện nhiễm trong nhóm cua và theo đó là nhóm sinh vật phù du; sinh vật phù du được xác định có nhiễm WSSV trong tất cả các ao dùng trong nghiên cứu. Con đường lây nhiễm WSSV từ thủy sinh vật – luân trùng – Artemia và cuối cùng là tôm.
Các côn trùng thủy sinh và một số loài chim cũng tham gia vào việc lan truyền bệnh virus trong hệ thống nuôi tôm. Côn trùng thủy sinh Trichocorixa reticulata (Corixidae) ăn tôm chết và chúng bay từ ao này qua ao khác làm lây lan TSV giữa các ao nuôi. Phân của chim mòng biển (Larus atricilla) được lấy ở quanh các ao bị nhiễm TSV trong đợt dịch bệnh đỏ đuôi ở Texas năm 1995 đã phát hiện có chứa nhóm TSV này.
Ngoài ra, quá trình chế biến các sản phẩm đông lạnh cũng đóng vai trò lây lan virus trong hệ thống nuôi tôm. WSSV, TSV, YHV được phát hiện trong các sản phẩm tôm đông lạnh (OIE, 2009). Chất thải trong quá trình chế biến tôm đông lạnh thường không qua xử lý nên chính là nguồn lan truyền vào trong nguồn nước nuôi.
Kiểm soát
Một trong những biện pháp kiểm soát được sự lây lan các mầm bệnh virus do sinh vật mang mầm bệnh bao gồm: Phơi khô các ao bị nhiễm bệnh virus; trong quá trình nuôi, nguồn nước dùng cho các lần thay nước cần phải lọc hoặc xử lý trong các ao chứa; không nên dùng thức ăn có nguồn gốc động vật thủy sản tươi hoặc qua ướp đông để nuôi tôm thịt, nuôi thành thục ngoại trừ trường hợp nguồn thức ăn này được xử lý bằng tia gamma hoặc xử lý nhiệt (giữ 70oC trong 10 phút); tìm hiểu về các loài vật mang mầm bệnh virus để tránh sự xâm nhập vào hệ thống nuôi.
Related news
Trong mùa mưa bão kéo dài thì nên bổ sung khoáng chất cho tôm ra sao cho hợp lý?
Tôi muốn tìm hiểu về thả giống tôm vào mùa lạnh cần lưu ý gì để giảm hao hụt?
Thủy sản Việt Nam nhập khẩu vào Hàn Quốc trong 10 tháng đầu năm nay tăng về giá trị. Việt Nam đang đứng thứ 3 về cung cấp thủy sản cho thị trường này.