Kích thích biến thái và tăng trưởng ấu trùng cua biển
Nghiên cứu cho thấy hàm lượng lecithin thích hợp kích thích quá trình sinh trưởng và biến thái của ấu trùng cua biển.
Cua biển (Scylla paramamosain) là loài đang được phát triển nuôi ở Việt Nam do tăng trưởng nhanh, có kích thước lớn và giá trị kinh tế cao. Hiện nay, hầu hết các trại sản xuất giống nhân tạo cua biển áp dụng cho ăn kết hợp thức ăn tươi sống (ấu trùng Artemia) với thức ăn nhân tạo để giảm giá thành sản xuất.
Hiện nay các trại giống thường dùng thức ăn viên của tôm khi ương giống cua biển. Thực tế cho thấy thức ăn tôm có thể không đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho ấu trùng cua, vì vậy cần nghiên cứu phối chế thức ăn riêng biệt để ương nuôi ấu trùng cua biển đạt hiệu quả cao hơn.
Lecithin là một phospholipid có vai trò rất quan trọng trong thành phần dinh dưỡng của thức ăn, do lecithin tham gia vào thành phần cấu tạo màng tế bào cung cấp năng lượng, giữ vai trò quan trọng trong sự vận chuyển và hấp thụ lipid, tham gia vào các quá trình biến dưỡng trung gian trong cơ thể cá và giáp xác. Vì thế, lecithin được khẳng định là rất cần thiết trong khẩu phần ăn của nhiều loài giáp xác làm tăng tỉ lệ sống và sinh trưởng của đối tượng nuôi như tôm hùm Mỹ, tôm đất Penaeus merguiensis, tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei và cua biển Scylla serrata.
Do đó, việc xác định nhu cầu lecithin thích hợp trong thức ăn cho ấu trùng cua biển (S. paramamosain) giai đoạn zoae 3 đến cua 1 được thực hiện là cần thiết nhằm góp phần hoàn thiện thiết lập công thức thức ăn chế biến ương nuôi ấu trùng cua biển đạt hiệu quả cao.
Nghiên cứu ứng dụng lecithin vào thức ăn ấu trùng cua biển
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mức bổ sung lecithin thích hợp trong thức ăn phối chế cho ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain) ở hai giai đoạn ương nuôi
- Giai đoạn (1) từ giai đoạn zoea 3 đến megalop
- Giai đoạn (2) từ giai đoạn megalop đến cua 1
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm năm nghiệm thức thức ăn có cùng hàm lượng protein (53%), lipid (12%), được bổ sung với các mức lecithin lần lượt là 0% (đối chứng), 1%, 2%, 3% và 4%. Ấu trùng cua được cho ăn kết hợp thức ăn thí nghiệm và ấu trùng Artemia trong suốt thời gian ương nuôi.
Thức ăn thí nghiệm được chế biến như sau: Cân nguyên liệu -> trộn nguyên liệu khô -> trộn ướt-> ép viên -> nghiền tạo viên nhỏ -> sàng qua lưới chọn viên thức ăn có kích thước phù hợp thí nghiệm -> sấy khô -> bảo quản ở nhiệt độ -20oC. Kích cỡ viên thức ăn zoea 3- zoea 4: 150 - 250 µm, Zoea 5: 250 - 600 µm, megalop: 400 - 600 µm (Genodepa, 2004).
Kết quả
Khi chuyển sang giai đoạn megalop, thức ăn thí nghiệm với các hàm lượng lecithin khác nhau (1- 4%) đã ảnh hưởng rất rõ đến tỉ lệ sống của megalop. Nghiệm thức đối chứng không bổ sung lecithin có tỉ lệ sống thấp nhất (6,58%) và tỉ lệ sống được cải thiện theo mức tăng lecithin trong thức ăn từ 1% đến 3% là cao nhất (11,20%) và khi tăng mức bổ sung lecithin đến 4% thì tỉ lệ sống của megalop bị giảm (9,06%). Kết quả thống kê cho thấy nghiệm thức bổ sung 3% lecithin cao hơn có ý nghĩa so với hai nghiệm thức còn lại.
Ngoài ra, sự biến thái của ấu trùng cua biển bị ảnh hưởng bởi hàm lượng lecithin bổ sung vào thức ăn. Cụ thể ấu trùng cua ở nghiệm thức đối chứng không được bổ sung lecithin đều có kết quả về chỉ số biến thái sau 3 và 6 ngày ương thấp nhất so với các nghiệm thức thức ăn được bổ sung lecithin. Khi hàm lượng lecithin trong thức ăn được bổ sung tăng tỉ lệ thuận với chỉ số biến thái của ấu trùng. Tuy nhiên, sự biến thái của ấu trùng ở nghiệm thức thức ăn chứa hàm lượng lecithin cao (4%) cho kết quả thấp hơn so với thức ăn chứa 3% lecithin. Do đó, thức ăn trong ương ấu trùng cua biển chứa 3% lecithin cho kết quả tốt nhất về chỉ số biến thái của ấu trùng cua.
Kết quả cho thấy khi ương nuôi ấu trùng cua từ giai đoạn zoea 3 đến megalop, nghiệm thức thức ăn bổ sung 3% lecithin cho chỉ số biến thái, tỉ lệ sống, chiều dài và khối lượng của megalop cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
Khi ương nuôi từ giai đoạn megalop, chiều rộng mai và khối lượng cua 1 ở nghiệm thức 3% lecithin đạt lớn nhất, đồng thời, tỉ lệ sống cao nhất và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại trừ nghiệm thức 2% và 4% lecithin đối với tỉ lệ sống. Kết quả này có thể kết luận rằng thức ăn phối chế bổ sung 3% lecithin được xem là thích hợp trong ương nuôi ấu trùng cua biển S. paramamosain.
Nghiên cứu cung cấp thêm thông tin cơ sở góp phần hoàn thiện thiết lập công thức thức ăn chế biến ương nuôi ấu trùng cua biển đạt hiệu quả cao.
Theo Lâm Tâm Nguyên, Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Thị Ngọc Anh.
Related news
Cua bùn là loài nuôi phổ biến ở một số nước châu Á như Bangladesh, Ấn Độ, Thái Lan, Philippine, Việt Nam... Cua bùn có nhu cầu và giá cả cao trên thị trường
Trong nghiên cứu này sử dụng nhiều loại dầu thực vật khác nhau để thay thế dầu cá trong thức ăn của ấu trùng ghẹ xanh.
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá hiệu quả chế phẩm ecdysone để tạo cua lột thương phẩm.