Home / Tin tức / Tin nông nghiệp

Không phải khô dầu đậu nành từ nguồn nào cũng giống nhau

Không phải khô dầu đậu nành từ nguồn nào cũng giống nhau
Author: Ecovet Team (biên dịch) - Ioannis Mavromichalis, Ph.D.
Publish date: Monday. July 16th, 2018

Bột đậu nành có nguồn gốc khác nhau không giống nhau vì giá trị dinh dưỡng của nó phụ thuộc vào nước xuất xứ.

Hàm lượng protein thô đã và đang là khía cạnh quan trọng nhất trong việc kiểm soát chất lượng đối với bột đậu nành. Tuy nhiên, bột đậu nành là một mặt hàng quốc tế, và mặc dù được sử dụng trên toàn thế giới, nó chỉ được xuất khẩu bởi một số ít các quốc gia. Sau đó, tập trung vào những nhà xuất khẩu chính để điều tra xem liệu các điều kiện chế biến của họ chỉ có ảnh hưởng đến hàm lượng protein hay còn về chất lượng protein, điều này cũng quan trọng không kém.

Trong một nghiên cứu gần đây được xuất bản trong tạp chí Khoa học gia cầm, thành phần dinh dưỡng, khả năng tiêu hóa của axit amin (AA), và năng lượng trao đổi biểu kiến đối với gia cầm (AME) của 55 mẫu bột đậu nành có nguồn gốc khác nhau đã được đánh giá: từ Hoa Kỳ (US, n = 16 ), Argentina (ARG, n = 16), Braxin (BRA, n = 10) và Ấn Độ (IND; n = 13). Các mẫu được thu thập từ các nhà máy thương mại ở Đông Nam Á, và chúng được so sánh bằng các phân tích trong phòng thí nghiệm và các nghiên cứu trên động vật.

Có khác biệt đáng kể (P <0,05 đến 0,001) do nguồn gốc sản phẩm về protein thô (CP), chất béo, tro, chất xơ và các thành phần polysaccharide phi tinh bột (NSP) của SBM. Hàm lượng CP trung bình của các mẫu từ Mỹ, ARG, BRA, và IND được xác định là 47,3, 46,9, 48,2 và 46,4 phần trăm (so với KL nguyên liệu), tương ứng. Trong các mẫu của Hoa Kỳ chất xơ thô và hàm lượng NSP thấp hơn (P <0,05) và hàm lượng sucrose cao hơn (P <0,05) so với SBM từ các nguồn gốc khác. Các mẫu IND có hàm lượng chất xơ, tro và NSP cao nhất (P <0,05) và hàm lượng chất béo và sucrose thấp nhất (P <0,05). Sự khác biệt (P <0,0001) cũng đã được quan sát thấy bằng các biện pháp in vitro ở các mẫu có xuất sứ khác nhau về chất lượng protein (index urease, KOH protein hòa tan, và hoạt động ức chế trypsin). Sự khác biệt đáng kể (P <0.001) về hàm lượng khoáng cũng được tìm thấy từ các mẫu có nguồn gốc khác nhau. Khô đậu tương từ Mỹ và IND có hàm lượng canxi cao hơn (P <0,05) (0,45 phần trăm) so với những mẫu từ ARG và BRA (0,28-0,31%). Hàm lượng phốt pho và kali thấp nhất (P <0,05) ở SBM từ IND, và không có sự khác biệt (P> 0,05) trong SBM từ các nguồn gốc khác. Hàm lượng sắt rõ ràng là cao (928 mg / kg) trong SBM từ IND so với các nguồn gốc khác (103-134 mg / kg).

Sự khác biệt chủ yếu liên quan đến nguồn gốc (P <0.0001) được ghi nhận trong AME của SBM. Mật độ AME trung bình của các mẫu từ Mỹ, ARG, BRA và IND tương ứng là 2,375, 2,227, 2,317 và 2,000 kcal / kg. Tổng lượng AA của các mẫu Hoa Kỳ, ARG, BRA, và IND tương tự nhau (P> 0,05) đối với 9 trong số 17 axit amin. Các khác biệt chính (P <0,05 đến P <0,001) do nguồn gốc được xác định cho tiêu hóa của tất cả các AA. Các mẫu IND có tỷ lệ tiêu hóa thấp nhất (P <0,05) và không có sự khác biệt (P> 0,05) giữa các mẫu từ 3 nguồn gốc khác. Tuy nhiên, hàm lượng CP tiêu hóa của SBM của Hoa Kỳ cao hơn P <0,05 so với ARG và IND, nhưng tương tự (P> 0,05) so với BRA. Hàm lượng CP tiêu hóa được của SBM từ Mỹ, ARG, BRA, và IND lần lượt là 40,0, 38,6, 39,8 và 36,7 phần trăm. Hàm lượng của AA thiết yếu tiêu hóa được, nói chung, theo xu hướng giống như CP tiêu hóa được.

Kết luận: Đánh giá hiện tại cho thấy có sự khác biệt lớn về giá trị dinh dưỡng giữa SBM từ các nguồn gốc khác nhau về hàm lượng chất dinh dưỡng, AME và AA tiêu hóa.

Nguồn: WattAgnet.com


Related news

Xén tóc đục thân, cành và bệnh thối trái đang thách thức nông dân trồng vú sữa Xén tóc đục thân, cành và bệnh thối trái đang thách thức nông dân trồng vú sữa

Vú sữa là một cây ăn trái nhiệt đới thích hợp với độ nhiệt và độ ẩm thường xuyên cao. Vú sữa không kén đất và được xếp vào nhóm cây ăn trái cho giá trị kinh tế

Monday. July 16th, 2018
Quy trình trồng và chăm sóc cây vừng đúng kỹ thuật Quy trình trồng và chăm sóc cây vừng đúng kỹ thuật

Hạt mè (vừng) ngoài việc dùng làm gia vị chế biến món ăn thì nó còn có tác dụng chữa bệnh tóc bạc sớm, suy nhược sau cơn bệnh, ho khan, thiếu sữa sau khi sinh

Monday. July 16th, 2018
Perdue tiên phong nuôi gia cầm NAE Perdue tiên phong nuôi gia cầm NAE

Tuyệt đối không kháng sinh (NAE) sẽ là xu hướng của ngành gia cầm trong tương lai. Perdue Foods, một trong những hãng sản xuất gia cầm lớn nhất Mỹ

Monday. July 16th, 2018