Hiện Tượng Nghẹt Rễ Sinh Lý Trên Lúa Mùa

Triệu chứng: Lúa sau cấy giai đoạn hồi xanh, đẻ nhánh xuất hiện một số khóm hay cả ruộng lúa lá bị úa vàng hoặc chết. Khi nhổ các khóm lúa trên thấy; lá chuyển sang vàng tối, rễ thâm đen và có mùi tanh đặc trưng.
Nguyên nhân: Do lúa bị hiện tượng nghẹt rễ, thường gây hại nặng ở những chân ruộng, vùng có cơ cấu sản xuất 3-4 vụ/năm (hai lúa một mầu, hai lúa hai mầu hoặc sản xuất ba vụ lúa), thời gian nghỉ đất giữa hai vụ ngắn. Mặt khác các phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, cây lạc, cỏ) trên ruộng chưa kịp hoai mục, bị lên men vi sinh vật yếm khí kết hợp nhiệt độ ngoài trời cao, nên ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phân giải các chất hữu cơ và giải phóng các khí CH4 (mê tan), H2S (Hyđrôsunfua) dẫn đến ngộ đôc cho bộ rễ gây nên hiện tượng nghẹt rễ sinh lý.
Biện pháp phòng và hạn chế hiện tượng trên:
Để hạn chế hiện tượng trên nên tiến hành đồng bộ các giải pháp kỹ thuật như: làm đất kỹ, ngâm dầm (dập ruộng) ngay sau khi thu hoạch lúa xuân, luôn duy trì mức nước từ 5-10cm, kiểm tra bờ ruộng luôn ở trạng thái giữ nước tốt, nếu có phân chuồng tươi, rơm rạ, phế phụ phẩm nông nghiệp khác cần băm nhỏ vãi đều ra ruộng trước khi làm đất.
Khi đến thời vụ cấy tháo cạn bớt nước trên ruộng để lại từ 3-5cm (nếu ruộng đầy nước), tiến hành làm đất nhuyễn trước khi cấy. Nên bón cân đối các loại phân nhất là cân đối phân NPK. Với những ruộng lầy thụt hoặc các phụ phẩm nông nghiệp còn chưa kịp hoai nên dùng thêm từ 10-20 kg vôi bột/360m2 trước khi làm đất cấy.
Với những ruộng lúa bị nhiễm bệnh tiến hành tháo cạn nước, dùng 10-20 kg vôi bột bón đều vào ruộng, làm cỏ sục bùn cho thoát khí CH4 (mê tan), H2S (Hyđrôsunfua), kết hợp dùng một số loại phân bón qua lá như AH; KH (Thanh Hà) hoặc các chất kích thích tạo rễ mới có bán trên thị trường phun theo hướng dẫn. Khi thấy rễ trắng phát triển lại tiến hành bón thêm phân lân (Supe hoặc Nung chảy) tuỳ theo chân ruông với lượng 10-15 kg và tiến hành chăm bón lại như bình thường.
Related news

Sau hai năm thực hiện mô hình cấy và gieo thẳng lúa theo phương thức hàng rộng, hàng hẹp, nhiều nông dân Thái Bình đã thừa nhận hiệu quả của phương thức này, đó là: giảm 30% lúa giống, tăng năng suất 10%, giảm sâu bệnh và không còn dấu hiệu của bệnh vàng lùn, lùn sọc đen

Bệnh thối bẹ do nấm gây nên, xuất hiện và gây hại trên bẹ lá đòng vào thời kỳ sắp trỗ bông. Bệnh làm cho bông lúa cũng như hạt lúa bị ngắn lại. Bị bệnh sớm cây lúa có bông trỗ không thoát, đồng thời hạt lúa bị lép và biến màu

Bệnh vàng lá hay là bệnh vàng lá chín sớm. Đây là bệnh mới xuất hiện và gây hại từ vụ Đông Xuân năm 1988 ở tiền Giang. Hầu hết các giống cao sản ngắn ngày đều có thể nhiễm bệnh.

Bệnh lem lép hạt làm biến màu vỏ hạt lúa, có thể gây hại trên vỏ trấu hoặc bệnh trong hạt. Trên vỏ hạt, triệu chứng thay đổi tùy loài vi sinh vật gây hại và tùy mức độ nhiễm bệnh. Triệu chứng bệnh là những vết nhỏ màu nâu đen, hoặc là những mãng nâu bao phủ cả vỏ hạt

Trứng hình bầu dục, có vân mạng lưới rất nhỏ, đẻ cả ở mặt trên và mặt dưới lá (nhưng chủ yếu ở mặt trên lá). Trứng mới đẻ màu hơi đục, khi gần nở chuyển màu ngà vàng