Giải pháp tăng cường ôxy đáy cho ao nuôi tôm (P2)
Ở các trang trại bán thâm canh ở các nước Mỹ Latin, mật độ nuôi thường cao hơn khoảng 20-60 tôm mỗi mét vuông. Các ao cũng là sâu tầm 1m-1,2m và có thiết bị sục khí, nhưng không nhiều; trung bình khoảng 6-18 mã lực / héc-ta. Các ao nhỏ hơn, khoảng 1-3 ha hoặc lên đến 10-20 ha trên một số trang trại.
Ở các trang trại nuôi tôm ở Thái Lan, hầu hết người nuôi tôm đều lắp đặt thiết bị sục khí có công suất ít nhất là 36 mã lực cho mỗi héc-ta để đảm bảo rằng có đủ nước để giữ đáy ao sạch trong khu vực cho ăn. Các trầm tích được cuốn về phía trung tâm của ao.
Đương nhiên, các thiết bị sục khí cũng giúp tăng lượng oxy hòa tan trong nước vì vậy mà chất hữu cơ sẽ bị phân hủy bởi vi sinh vật hiệu quả hơn.
Oxy hoàn tan không nên giảm xuống dưới 4 ppm, ngay cả vào sáng sớm. Nếu muốn sản tôm năng suất cao, hầu hết các trang trại sử dụng nhiều hơn thiết bị sục khí, dựa trên các nguyên tắc chung khoảng 450 kg tôm cho mỗi 1 hp công suất thiết bị sục khí. Điều này áp dụng cho hệ thống quản lý trang trại mà nước không được thay thường xuyên, nhưng thức ăn được quản lý chặt chẽ.
Nếu người nuôi tôm nhận thấy rằng oxy hòa tam giảm xuống dưới 4 ppm vào buổi sáng hoặc tôm dường như ngày càng phát triển chậm hơn so với bình thường, hầu hết họ sẽ thu hoạch một phần để giảm bớt số lượng tôm trong ao, vì vậy không cần thiết sử dụng nhiều thức ăn cho vụ nuôi còn lại. Thêm lượng lớn thức ăn vào ao nuôi mỗi ngày có ảnh hưởng đến việc cung cấp oxy và chất lượng nước.
Các trang trại thành công trong việc giữ oxy hòa tan có nồng độ oxy không ít hơn 4 ppm thậm chí vào buổi sáng, thường rất thành công, tốc độ tăng trưởng tốt, tỷ lệ sống sót cao và tiêu tốn thức ăn thấp. Khi oxy hòa tan được duy trì ở mức ít nhất là 4 ppm, thì tôm ít khi bị bệnh phân trắng hoặc nhiễm trùng do vi khuẩn. Ngược lại, ở các trang trại nơi oxy hòa tan giảm xuống dưới 4 ppm vào ban đêm, tôm sẽ tăng trưởng chậm trong suốt thời gian nuôi và bệnh phân trắng là rất phổ biến.
Tôm bị bệnh hoại tử gan tụy - AHPND. Ảnh Internet |
Thường là không thể xử lý kịp khi một số lượng lớn tôm bị nhiễm bệnh do vi khuẩn. Thông thường, người nuôi tôm phải thu hoạch mùa vụ sớm, khoảng 70-90 ngày, có nghĩa là mục tiêu sản xuất không đạt yêu cầu và thông số chuyển đổi thức ăn FCR khá cao. Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh thủy sản (ABRC) đã làm một thí nghiệm trong đó tôm nặng 7g, được nuôi trong bể cá chứa đầy nước ở độ mặn 25 ppt và giữ ở nhiệt độ 29± 1 độ C, đó là nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển tôm.
Hầu hết các trang trại nuôi tôm, nồng độ oxy hòa tan thích hợp vào ban ngày là ở trên 4 ppm. Vào những ngày trời nắng, các thực vật phù du trong nước quang hợp và tạo ra oxy.
Nồng độ oxy hòa tan giảm xuống rất thấp từ khoảng nửa đêm đến sáng sớm. Trong khoảng thời gian trước bình minh thì lượng oxy hòa tan có thể xuống đến 3-4 ppm, 2-3 ppm hoặc thậm chí thấp hơn 2 ppm tại một số trang trại.
Ôxy là nhân tố định ra giới hạn chủ yếu trong cả hai hệ thống nuôi trồng thủy sản truyền thống và tuần hoàn khép kín. Ít hơn mức quy định đã dẫn đến chất lượng nước kém, ôxy hòa tan nghèo nàn, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn thấp (FCR), tôm phát triển chậm, chậm lớn và tỷ lệ tử vong tăng lên. Với chi phí sử dụng điện cao, việc lựa chọn thiết bị sục khí hiệu quả, tiết kiệm điện đang trở nên quan trọng trong quá trình nuôi tôm công nghiệp.
Phản ứng của tôm với mức ôxy hòa tan trong ao |
Để đạt được sản lượng tôm thẻ chân trắng mong muốn, bên cạnh việc chú ý đến chất lượng của tôm giống, chọn thời vụ thích hợp trong năm, và sử dụng các biện pháp quản lý trang trại được đề nghị, người nông dân cũng nên chú ý tới việc duy trì mức oxy hòa tan trong nước trong suốt thời gian nuôi. Để đạt hiệu quả cao hơn thì nên tập trung vào việc giữ mức oxy cao hơn là sử dụng nhiều loại hóa chất hoặc các sản phẩm khác để cố gắng giải quyết vấn đề do oxy nồng độ thấp gây ra. Nếu giữ nồng độ oxy hòa tan ở mức độ phù hợp trong suốt thời vụ nuôi, tôm sẽ phát triển tốt và khỏe mạnh. Do đó sẽ không cần phải lo lắng đến các vấn đề về bệnh ký sinh trùng hay nhiễm khuẩn trên tôm nữa.
Ảnh hưởng ôxy hòa tan đối với tốc độ bắt mồi của tôm |
Phương pháp xác định mức ôxy hòa tan cần cung cấp: | |
Phương pháp 1 | Phương pháp 2 |
Căn cứ lượng tôm trong ao: Trung bình 400kg cần 1 máy quạt nước 1HP. | Căn cứ nhu cầu (DO): Ví dụ diện tích ao nuôi 2000m2, mực nước sâu 1.6m, DO cần duy trì là 4 mg O2/lit |
Từ đây sẽ xác định được bao nhiêu máy quạt nước và thiết bị sục khí đáy cần lắp đặt. www.aquatec.vn |
Có rất nhiều cách để tăng cường mức ôxy trong ao nuôi tôm, một trong những cách phổ biến và hiệu quả là kết hợp sục khí đáy (ống thông khí NANO TUBE®) với Máy quạt nước.
Phương án 1: Lắp đặt hệ thống sục khí đáy xung quanh ao. Tùy theo mật độ thả tôm giống cao hay thấp, sẽ sử dụng Máy sục khí công suất lớn hay nhỏ. |
Ở các trang trại nuôi tôm ở Thái Lan, hầu hết người nuôi tôm đều lắp đặt thiết bị sục khí có công suất ít nhất là 36 mã lực cho mỗi héc-ta để đảm bảo rằng có đủ nước để giữ đáy ao sạch trong khu vực cho ăn. Các trầm tích được cuốn về phía trung tâm của ao. Đương nhiên, các thiết bị sục khí cũng giúp tăng lượng oxy hòa tan trong nước vì vậy mà chất hữu cơ sẽ bị phân hủy bởi vi sinh vật hiệu quả hơn. Oxy hoàn tan không nên giảm xuống dưới 4 ppm, ngay cả vào sáng sớm. Nếu muốn sản tôm năng suất cao, hầu hết các trang trại sử dụng nhiều hơn thiết bị sục khí, dựa trên các nguyên tắc chung khoảng 450 kg tôm cho mỗi 1HP công suất thiết bị sục khí.
Một ao nuôi tôm thẻ chân trắng lắp đặt hệ thống sục khí đáy xung quanh ao. Các thiết bị bao gồm: Máy thổi khí Trundean, Vỉ khuếch tán ôxy (Tròn), ống dẫn; Kết hợp Máy quạt nước |
Related news
Chúng ta biết rằng chi phí thức ăn chiếm khoảng 40-50% trong tổng chi phí sản xuất tôm. Như vậy, những nỗ lực cắt giảm chi phí thường tập trung vào việc kiểm soát lượng thức ăn cho tôm để không có chất thải dư thừa hoặc không cần thiết.
Nghiên cứu MPEDA/NACA cho thấy bệnh đốm trắng WSD rõ ràng không phải gây ra bởi một yếu tố bất kỳ, mà là nhiều yếu tố nguy cơ tác động đến sự xuất hiện của bệnh đốm trắng ở trang trại.
Những chủ doanh nghiệp trang trại nuôi tôm sớm nhận ra rằng nuôi tôm có nhiều lợi ích và giá trị cao, nhưng cũng đồng thời chia sẻ về những thách thức