Đài Loan dội gáo nước lạnh thị trường trà Việt lao đao
Hàng ngàn nông dân trồng trà ô long lao đao; hàng chục doanh nghiệp xuất khẩu loại trà này “cửa đóng then cài”.
Đó là bức tranh buồn tại vùng sản xuất trà ô long nổi tiếng Việt Nam.
Chặt trà ô long, trồng lan vũ nữ
Hàng ngàn hộ trồng trà ô long, trong đó gồm cả những tỉ phú giàu lên nhờ loại trà này tại “vương quốc trà” của tỉnh Lâm Đồng như Đà Lạt, Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh… đang lâm vào cảnh sống dở chết dở do không tiêu thụ được sản phẩm.
Sau khi hàng loạt công ty thông báo ngưng mua, nhiều trang trại phải vất vả tìm nơi bán trà với giá rẻ bèo.
Trước đây trà ô long giá 25.000-30.000 đồng/kg, nay chỉ còn 15.000 đồng/kg, thậm chí hơn 10.000 đồng/kg.
Mức giá này quá thấp, lỗ nặng nên nhiều người nhổ bỏ trà.
Anh Nguyễn Đức Quyết ở TP Bảo Lộc than vãn hiện nay trà ô long thu hoạch từ 2 ha của gia đình phải bán trôi nổi với giá 15.000 đồng/kg, bằng một nửa so với trước.
“Trà ô long rất khó tính, đòi hỏi phải đầu tư, chăm sóc với chi phí rất cao, thậm chí phải cho trà “ăn” cả những thứ cao cấp như sữa, mật ong… Nếu cứ đà này, sắp tới tôi sẽ bỏ mặc để trà già, hái lá bán bằng giá trà bình dân - trà cành, trà hạt”.
Về phía các doanh nghiệp, ông Liu Stung Ching, Chủ tịch HĐQT Công ty Trà ô long Tứ Hải, ở TP Bảo Lộc, cho biết hiện công ty còn tồn kho khoảng 40 tấn.
Đầu ra khó khăn nên công ty buộc phải ra thông báo hạn chế mua trà tươi từ người dân.
Ông Ching bức xúc: “Việc xuất hiện tin đồn trà Việt Nam bị nhiễm độc khiến nhiều người Trung Quốc e ngại.
Người tiêu dùng tại hai thị trường này chỉ biết rằng trà Việt nói chung, không phân biệt trà ô long cao cấp hay trà đen nên chúng tôi bị gặp vạ là điều đương nhiên”.
Do các đối tác phía Đài Loan đột ngột thông báo dừng mua trà làm cho Công ty Fusheng ở TP Đà Lạt tồn kho tới 70 tấn trà ô long thành phẩm.
Không còn cách nào khác, công ty đành phải thông báo cho 28 hộ dân liên kết sản xuất ngừng mua trà để chuyển một phần diện tích sang trồng hoa lan vũ nữ và hồ điệp.
“Chúng tôi đã tìm đủ cách nhưng vẫn chưa có đầu ra.
Việc chúng tôi chuyển kinh doanh một phần sang trồng hoa là quyết định khó khăn nhưng không còn cách nào khác” - bà Lê Thanh Định, Phó Giám đốc công ty, ngậm ngùi.
Chết vì “bỏ hết trứng vào một giỏ”
Đài Loan mới đây bất ngờ đưa ra tiêu chuẩn: Hoạt chất fipronil trên trà ô long chỉ được phép ở mức 0,002 ppm - gần như bằng 0.
Tiêu chuẩn này cao gấp nhiều lần mức chung của thị trường châu Âu và các thị trường khác (0,005 ppm).
Bình luận về tiêu chuẩn này, ông Phạm S., Phó Chủ tịch tỉnh Lâm Đồng, nói: “Đây là mức được xem là bằng 0.
Theo tiêu chuẩn này, chỉ cần những vườn trồng các loại cây khác từ ngoài vườn trà phun thuốc trừ sâu bay vào thì trà cũng bị vượt ngưỡng dư lượng chất fipronil”.
Một số doanh nghiệp kinh doanh trà cho rằng việc Đài Loan áp dụng hàng rào kỹ thuật quá khắt khe và vô lý như vậy là nhằm hạn chế nhập trà của Việt Nam, ưu tiên ngành trà của họ.
Nó chẳng khác nào "dội gáo nước lạnh" vào ngành trà Việt Nam.
Tuy nhiên, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do lâu nay trà Việt Nam phó thác gần như tuyệt đối vào thị trường Đài Loan và Trung Quốc.
Điều này chẳng khác nào “bỏ hết trứng vào một giỏ”.
Theo Sở Công Thương tỉnh Lâm Đồng, khoảng 95% sản lượng trà ô long của Lâm Đồng được xuất khẩu sang Đài Loan.
Ông Phạm S, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, nhìn nhận: “Các doanh nghiệp chưa linh hoạt tìm kiếm thị trường, chỉ dựa vào Đài Loan nên khi thị trường này có vấn đề thì bị ảnh hưởng ngay.
Không chỉ vậy, khi có thị trường mới, nhiều doanh nghiệp lại tranh bán với nhau làm cho giá trị của trà giảm xuống”.
Khẩn cấp giải cứu ngành trà
Trước tình trạng bi đát của cây trà, UBND tỉnh Lâm Đồng vừa có công văn đề nghị Hiệp hội Chè Việt Nam vào cuộc “giải cứu” ngành trà.
Đồng thời ngày 3-11 vừa qua, UBND tỉnh Lâm Đồng cũng đã tổ chức hội nghị bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm này.
Tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Lâm Đồng, cho biết thống kê chưa đầy đủ, đến giữa tháng 10-2015, sản phẩm trà xanh, trà đen và trà ô long tồn đọng trong kho tại các doanh nghiệp không xuất khẩu được 4.938 tấn.
Hiện đã có chín doanh nghiệp sản xuất trà tạm ngưng hoạt động; nhiều công ty khác hoạt động cầm chừng.
Ông Phạm S, Phó chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, gợi ý: “Cần hình thành các liên minh sản xuất trà bền vững, đồng thời định hướng sản xuất các nhóm sản phẩm theo thị trường, mở thêm thị trường mới”.
Nhiều ý khác cho rằng chỉ có liên kết mới đủ sức cạnh tranh, mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác ngoài Đài Loan và Trung Quốc.
“Chúng ta phải liên kết lại với nhau để có diện tích lớn, tạo vùng nguyên liệu sạch để sản xuất, kinh doanh theo chuỗi an toàn thực phẩm”, ông Phạm Đức Nguyên, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân Phương Nam, tha thiết kêu gọi.
Thêm nữa, các công ty phải chủ động khai thác thị trường trong nước, chế biến trà ô long phù hợp với “gu” người Việt với giá cả hợp lý.
Bởi giá trà bán trong nước hiện còn cao, trong đó loại cao cấp lên tới 1-3 triệu đồng/kg.
Với mức giá này nhiều người Việt không “với” tới.
Không sử dụng fipronil trên cây trà
Ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Lâm Đồng, cho biết Sở đã cập nhật danh mục thuốc bảo vệ thực vật đăng ký sử dụng trên trà, bổ sung và thực hiện mô hình khảo nghiệm các chủng loại thuốc bảo vệ thực vật có tiềm năng tốt nhằm thay thế thuốc fipronil để khuyến cáo cho nông dân sử dụng.
Đồng thời, Sở đang tổ chức và triển khai cho nông dân cam kết không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất fipronil trên cây trà.
Lâm Đồng hiện có vùng nguyên liệu trà lớn nhất nước với diện tích trên 22.000 ha, sản lượng trà búp tươi năm 2014 đạt 230.000 tấn.
Trong đó, diện tích trà chất lượng cao gần 6.000 ha, sản lượng trung bình đạt 18 tấn/ha.
Related news
Hiện nhiều vựa cua trên địa bàn An Giang và Đồng Tháp lo lắng do lũ kém, mưa ít nên sản lượng không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường nên luôn sốt giá.
Hiện nay, lũ đầu nguồn sông MeKong bắt đầu lên cao, biên độ nhiệt độ ngày đêm cao tạo điều kiện cho dịch bệnh trên cá tra phát triển như bệnh: xuất huyết, gan thận mủ, ký sinh trùng….
Theo kế hoạch năm 2015, huyện Trần Đề (Sóc Trăng) sẽ thả nuôi 5.700 ha thủy sản các loại, trong đó có 4.100 ha nuôi tôm nước lợ. Tính đến cuối tháng 8, toàn huyện đã thả nuôi 4.290 ha tôm sú và tôm thẻ, vượt kế hoạch hơn 190 ha, do có một phần diện tích bà con thả nuôi ngoài vùng quy hoạch, tập trung nhiều ở xã Tài Văn và Đại Ân 2.
Mô hình kết hợp lúa - cá là giải pháp bền vững nhằm giảm ô nhiễm môi trường, duy trì môi trường sinh thái tự nhiên, tạo ra sản phẩm cá và lúa sạch cung cấp cho thị trường. Đặc biệt, mô hình đã giúp bà con nông dân vùng trũng, vùng lũ chuyển dịch sản xuất, nâng cao thu nhập. Tuy nhiên, hiện nay mô hình này đa phần được bà con nuôi dưới hình thức quảng canh, cơ sở hạ tầng vùng sản xuất yếu và thiếu, con giống, đầu ra sản phẩm còn nhiều bất cập…
Theo báo cáo của các địa phương, trong 7 tháng đầu năm 2015, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ bị thiệt hại là trên 21.000ha, gây tổn thất lớn về kinh tế của người nuôi và ngân sách nhà nước; người nuôi còn lạm dụng thuốc kháng sinh, hóa chất trong phòng, chống, trị bệnh cho tôm dẫn đến một số nước đã ngừng hoặc cảnh báo tôm Việt Nam có dư lượng kháng sinh vượt giới hạn cho phép.